Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

[7.6.3] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 - tiếp [Phần 4]

Link phần trước:

[7.6.2] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 - tiếp [Phần 3]



5. Sau ngày 19/12/1970

            Chiến dịch tiếp diễn với mục tiêu là phá hủy hàng hóa hậu cần và cản trở các hoạt động khắc phục hậu quả của quân đội Bắc Việt.

Ngày 20/12/1970, số vụ cháy và nổ phát sinh lần lượt là 53 và 3318 vụ. 2 máy bay F4 và 4 máy bay F100 thực hiện các phi vụ oanh tạc.

Ngày 21/12/1970, 25 phi vụ oanh tạc được thực hiện, tuy nhiên con số vụ nổ/ cháy phát sinh giảm còn lần lượt là 174 và 40 vụ.

Các phi vụ oanh tạc ngày 22/12 đến ngày 25/12 giảm dần mỗi ngày, tuy nhiên đến ngày 26/12/1970 tăng vọt về số lượng vụ nổ/ cháy phát sinh quan sát được, lần lượt là 2520 và 33 vụ. Số phi vụ trong ngày 26/12 gồm: 27 F4 – 6 F100 – 10 A7, tổng cộng 43 phi vụ.

Hai mươi tám phi vụ, gồm 3 phi vụ do B52 thực hiện, oanh tạc khu vực mục tiêu ngày 28/12/1970, gây ra 326 vụ nổ phát sinh và 16 vụ cháy phát sinh.

Ngày 2/1/1971, tiến hành 43 phi vụ oanh tạc, kết quả là có 2273 vụ nổ phát sinh, trong đó có 1 vụ nổ được cho là nổ kho đạn pháo.

Bất chấp các vụ oanh tạc, xe vận tải của quân đội Bắc Việt tiếp tục sử dụng khu đỗ xe và kho hàng. Cho đến ngày 5/1/1971, ước tính có 10.097 vụ nổ phát sinh và 435 vụ cháy phát sinh, 43 xe vận tải bị phá hủy, và 11 xe bị hỏng.

Nhìn chung khó để xác định con số thật về thiệt hại hàng hóa… do các vụ oanh tạc gây ra. Con số thiệt hại được xác định bằng cách quan sát và đếm các vụ cháy/ nổ phát sinh, số xe vận tải bị hỏng hoặc phá hủy, số phi xăng/ dầu cháy/ nổ… Khi có số lượng lớn các vụ nổ diễn ra, các phi công ước tính số vụ nổ trong 1 phút và sau đó nhân với thời gian (phút) diễn ra vụ nổ. Cả phi công máy bay trinh sát lẫn phi công máy bay chiến đấu đều ghi chép các số liệu này. Sở chỉ huy sẽ so sánh, kiểm tra và hiệu chỉnh số liệu thiệt hại cuối cùng. Các vụ cháy phát sinh được chia thành cháy cực lớn, cháy lớn, cháy vừa, và cháy nhỏ; tuy nhiên nhìn chung đều quy là đám cháy, bất kể quy mô.

Phương pháp ước tính hàng hóa bị phá hủy trong các vụ nổ phát sinh là nhân số lần nổ với 1000 pound (453 kg) để ra tổng trọng lượng hàng hóa bị phá hủy. Với tổng số hàng hóa bị cháy, thì nhân số vụ cháy phát sinh với con số 400 pound.

Với xe tải bị phá hủy sẽ tính là 1.65 tấn hàng hóa bị phá hủy. Sở chỉ huy tính rằng 55% đi trên đường Hồ Chí Minh sẽ chở hàng về phía Nam, đi về phía Bắc thì không. Tải trọng trung bình của xe là 4 tấn. Khi có bằng chứng về việc quân đội Bắc Việt có thể tái sử dụng 1 số lượng hàng hóa từ các xe tải bị phá hủy, Sở chỉ huy đã giảm tải trọng ước tính của xe tải xuống còn 3 tấn. Và vì vậy, mỗi xe vận tải bị phá hủy sẽ tính là kèm theo có 1.65 tấn hàng hóa bị phá hủy. Đối với xe tải bị hư hỏng, tính toán sẽ có 0.55 tấn hàng hóa bị phá hủy.

Ngày 26/1/1971, trận chiến đánh phá căn cứ hậu cần tại trọng điểm Bạc lại tiếp tục trở lại, theo lệnh của tướng Westmoreland./.

[3.31.10] Thư của bác Nhan Hữu Sứng, đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bà Nguyễn Thị Phách, địa chỉ tại phố Huyện Quốc Oai - huyện Quốc Oai - Hà Tây, năm 1966

2015012829049.45 - Những bức thư thời chiến

Bức thư đề ngày 6/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966. Bác Sứng cùng đơn vị với bác Thỏa và bác Quang Phúc [Rx đã đưa lên ở các post trước].

Ảnh chụp các bức thư gửi về cho người vợ ở quê:

alt

alt

Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

[7.7.1] Sơ đồ các hố bom B52 và khu vục phát hiện thi thể bộ đội Việt Nam - Trận tấn công quân Úc tại căn cứ (FSB) Balmoral của tiểu đoàn 2 và 3 - Trung đoàn 165 - Sư đoàn 7 Quân giải phóng miền Nam rạng sáng 28/5/1968

2015072664037

Link phần trước:

[7.7] Trận tấn công quân Úc tại căn cứ (FSB) Balmoral của tiểu đoàn 2 và 3 - Trung đoàn 165 - Sư đoàn 7 Quân giải phóng miền Nam, rạng sáng ngày 28/5/1968



Dưới đây là sơ họa vị trí các hố bom B52, khu vực phát hiện các thi thể bộ đội Việt Nam sau trận đánh, và đường di chuyển của các xe tăng của quân Úc bên ngoài vị trí phòng thủ, vào sáng 28/5/1968.

Khu vực hố bom B52 bên trái phía Úc phá hiện 27 thi thể bộ đội Việt nam [Rx bổ sung thêm 1/8/2015]
 
alt

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

[3.31.10] Thư của bác Nguyễn Văn Đương, đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bác Nguyễn Văn Nhuận hoặc bà Dần, thôn Phú Đa - xã Đức Thượng - huyện Hoài Đức - Hà Tây, năm 1966 (tiếp...)

2015012829049.37 - Những bức thư thời chiến

Các bức thư đề ngày 4/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966. Bác Duơng cùng đơn vị với bác Thỏa và bác Quang Phúc [Rx đã đưa lên ở các post trước].

Ảnh chụp các bức thư gửi về cho người vợ và các con:

alt

alt

altalt

alt

alt

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

[5.25] Thông tin phía Mỹ ghi nhận về Trung đoàn 29 - Quân khu 4 tháng 8/1967

2015061636036

Rongxanh có nhận được 1 comment về Liệt sỹ hy sinh ngày 21/8/1967 thuộc Trung đoàn 29 quân khu 4, như sau:

http://kyvatkhangchien.vnweblogs.com/post/36742/461957#2139353

Viết bởi Hoàng Thị Thân thông tin phiên hiệu đơn vị [ Trả lời ] 19/05/2015, 10:44 các bác CCB ạ cho tôi hỏi . Năm 1967 tại khe sanh trung đoàn 29 thuộc đơn vị nào . Trận đánh ngày 21 tháng 8 năm 1967 tại khe sanh , có bác nào biết không ? mà sao lâu nay tôi tìm mãi trên mạng mà không thấy ai nhắc gì tới trung đoàn 29 cả . Vì bố tôi là Liệt Sỹ : Hoàng Trung Bôn . Sinh ngày 11 tháng 12 năm 1930 , nhập ngũ : 5 tháng 5 năm 1950 . Hy sinh ngày 21 tháng 8 năm 1967 .Tại mặt trận phía nam . An táng tại mặt trận phía nam theo giấy báo tử đề : Trung đoàn 29 . Thủ trưởng ký giấy BT : Nguyễn Văn Cảnh . Vậy ai biết thông tin gì về phần mộ của bố tôi . hoặc thông tin liên quan đến trung đoàn 29 cho tôi biết với . Xin cảm ơn mọi người trước .

Qua tìm hiểu, phía Mỹ có ghi nhận thông tin về 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 29 hay là Trung đoàn 18C/ Sư đoàn 325C - Quân khu Trị Thiên, hoạt động vào ngày 21/8/1967 tại khu vực gần Khe Sanh. Do bác Hoàng Thị Thân không để lại địa chỉ liên lạc (email), nên nếu bác có đọc được bài này, bác hãy gửi ảnh chụp Giấy báo tử/ hoặc ảnh chụp trích lục thông tin về Liệt sỹ vào mail Kyvatkhangchien@gmail.com, Rongxanh sẽ gửi lại gia đình thông tin về tiểu đoàn đó, nếu đúng là đơn vị của Liệt sỹ.

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015

[5.24] Thông tin phía Mỹ ghi nhận về Trung đoàn 29- Quân khu 4 năm 1967

2015061535034
Rongxanh có nhận được 1 comment về Liệt sỹ hy sinh 24/5/1967 thuộc Trung đoàn 29 quân khu 4.

http://kyvatkhangchien.vnweblogs.com/post/36742/464355#2141948
Viết bởi trương thanh huynh,quảng sơn,quảng bình TÌM MỘ LIỆT SỶ [ Trả lời ]
TÌM MỘ LIỆT SỶ.Trương quang giỏng
quê quán.thọ hạ,quảng sơn,quảng trạch ,quảng bình
sinh.7/1942
nhập ngủ.4/1963
hy sinh.8h ngày 24/5/1967,tại mặt trận phía nam
Đơn vị.trung đoàn 29,khu 4,giấy báo tử do ông Thân hoạt ký ngày 31/8/1967,ai biết phần mộ nằm ở đâu xin báo.trương thanh huỹnh.đt,01257558559


Qua tìm hiểu, phía Mỹ có ghi nhận về Trung đoàn 29 mang mật danh là Kien Giang (Kiên Giang hoặc Kiến Giang), thuộc Sư đoàn 325C. Trên thực tế, đây là Trung đoàn 18C thuộc Sư đoàn 325C, thời điểm đầu tháng 5/1967 được phía Mỹ ghi nhận hoạt động ở huyện Gio Linh - tỉnh Quảng Trị (phía Tây Cồn Tiên).

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

[2.20] Vài nét tóm tắt về lịch sử Trung đoàn 320

20150614 - Vài nét tóm tắt về lịch sử Trung đoàn 320
- Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn bộ binh 320. Trung đoàn trưởng đầu tiên là thiếu tá Đồng Sĩ Phiên, nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36 – Sư đoàn 308. Chính ủy là Trung tá Bùi Dư, quê Quảng Ngãi. Bộ Tổng tham mưu giao cho các Sư đoàn 308, 304, Lữ đoàn 350, mỗi đơn vị chọn lựa cán bộ và chiến sỹ trong sư đoàn, lữ đoàn tổ chức thành 1 tiểu đoàn bộ binh chuyển giao cho Trung đoàn 320.
   + Tiểu đoàn 334, do Sư đoàn 308 thành lập. Tiểu đoàn được mang truyền thống Đại đoàn Quân tiên phong 308.
   + Tiểu đoàn 966, do Sư đoàn 304 thành lập. Tiểu đoàn được lựa chọn cán bộ và chiến sỹ từ Trung đoàn 9 Quang Trung, và Trung đoàn 66, nên tên của Tiểu đoàn này được ghép từ 2 trung đoàn này, gọi là tiểu đoàn 966. Tiểu đoàn 966 được mang truyền thống của Đại đoàn 304 anh hùng. Sau này khi Trung đoàn 320 hành quân vào Nam bộ chiến đấu, thì tiểu đoàn 966 ở lại Tây Nguyên, tiếp tục chiến đấu ở vùng Pleiku. Sau này tiểu đoàn sát nhập với Tiểu đoàn 31 và lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 631.
      + Tiểu đoàn 635 do Lữ đoàn 350 thành lập, lấy tiểu đoàn 4 của Lữ đoàn làm nòng cốt. Tiểu đoàn 635 được mang truyền thống vinh quang của Đại đoàn 350.
     + Các đơn vị trực thuộc của Trung đoàn 320 gồm các đại đội: Trinh sát, công binh, thông tin, súng cối, DKZ được điều động từ các đơn vị của Bộ quốc phòng. Khi trung đoàn vào đến Tây Nguyên thì được bổ sung thêm 1 đại đội súng máy cao xạ 12.7mm từ Tiểu đoàn 33 súng máy cao xạ.

- Sau 4 tháng học tập và rèn luyện ở khu vực doanh trại của Lữ đoàn 338 ở Xuân Mai, Trung đoàn được chia thành 3 khối hành quân vào Tây Nguyên. Khối thứ nhất gồm có các cơ quan Trung đoàn, các đại đội trực thuộc và Tiểu đoàn 334. Khối thứ 2 là Tiểu đoàn 635, khối thứ 3 là Tiểu đoàn 966. Mỗi khối hành quân cách nhau 3 ngày. Khối thứ nhất rời Xuân Mai vào ngày 16/8/1964.

- Sau gần 3 tháng hành quân, đến tháng 11/1964 toàn Trung đoàn đã đến huyện 40 Daklây tỉnh Kontum. Khi thành lập Sư đoàn 1, thì Trung đoàn 320 được đứng chân trong đội hình Sư đoàn 1 – Mặt trận B3 Tây Nguyên.

- Sau một thời gian hoạt động ở khu vực bắc Tây Nguyên, tiếp tục cho đợt 2 tổng công kích và tổng khởi nghĩa, trong đợt 2 Sư đoàn 1 hành quân vào Đắc Lắc. Trung đoàn 320 vào triển khai chuẩn bị cho vận động tiến công ở khu vực Đức Lập. Lúc này Tiểu đoàn 6 (Tiểu đoàn 966) đã tách ra khỏi đội hình Trung đoàn và về hoạt động ở vùng Tây Gia Lai. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 33 về Trung đoàn 320 thay cho tiểu đoàn 6. Trong khi Trung đoàn 320 đang triển khai trận địa phục kích ở Đức Lập, thì tháng 5/1968, Sư đoàn 1 nhận được mệnh lệnh điều động Trung đoàn vào chiến trường miền Đông Nam bộ.

- Sau một thời gian hoạt động ở chiến trường miền Đông Nam bộ, đầu năm 1969, do tình hình khó khăn của các đơn vị trên địa bàn tỉnh Long An, Bộ tư lệnh miền đã quyết định điều Trung đoàn 320 về hoạt động tại địa bàn tỉnh Long An. Từ khu vực Katum (Tây Ninh), Trung đoàn hành quân đến căn cứ Ba Thu của Phân khu 2 vào dịp tết nguyên đán, sau đó hành quân tiếp về Long An.

- Theo kế hoạch, Trung đoàn bộ, các đại đội trực thuộc (đặc công, trinh sát, quân y, thông tin, vận tải...) và tiểu đoàn 6 (Tiểu đoàn 966) đứng chân và hoạt động ở huyện Châu Thành. Tiểu đoàn 5 (tiểu đoàn 635) đứng chân và hoạt động ở huyện Tân Trụ. Tiểu đoàn 4 (Tiểu đoàn 334) đứng chân và hoạt động ở khu vực huyện Cần Đước. Sau hơn 1 năm hoạt động ở địa bàn tỉnh Long An, toàn Trung đoàn có 1027 người hy sinh, trong đó có 5 cán bộ Trung đoàn, 593 người bị thương (Sau này tìm sơ bộ thì số cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 320 hy sinh trên địa bàn tỉnh Long An là khoảng 1700 người).

- Đầu năm 1970, Trung đoàn 320 nhận được lệnh để lại các Tiểu đoàn 4 ở Cần Đước, tiểu đoàn 5 ở lại Tân TRụ, tiểu đoàn 6 ở lại Châu Thành tiếp tục hoạt động. Các lực lượng khác của Trung đoàn rút về Ba thu. Các tiểu đoàn 4-5-6 ở lại hoạt động trong hoàn cảnh điều kiện cực kỳ khó khăn, có những lúc các tiểu đoàn mất liên lạc với ban chỉ huy Trung đoàn và Bộ tư lệnh Phân khu 3 nên không còn nguồn cungc cấp hậu cần. Đến cuối năm 1970, Trung đoàn bàn giao tiểu đoàn 4 – 5 – 6 cho tỉnh Long An (Mỗi tiểu đoàn thực tế quân số chỉ còn hơn 90 người).

- Ngày 4/5/1970 lực lượng Mỹ và VNCH tổ chức trận càn đánh trúng vào khu vực Trung đoàn 320 vừa tạm dừng chân, đã làm Trung đoàn bị thiệt hại nặng, trong đó có cả Ban chỉ huy Trung đoàn.

- Sau khi bàn giao tiểu đoàn 4 – 5 – 6 cho tỉnh Long An, khi về căn cứ, Trung đoàn 320 được Bộ Tư lệnh Miền bổ sung cho 2 tiểu đoàn của C30 , đại đội huấn luyện và số cán bộ chiến sỹ khác dồn lại tổ chức thành 1 tiểu đoàn. Từ tháng 9/1971 đến tháng 12/1971, Trung đoàn tập trung củng cố về tổ chức, huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Trung đoàn đã được biên chế đủ 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc.

- Tháng 2/1972, Trung đoàn 320 chính thức nhận nhiệm vụ về Quân khu 8 chuẩn bị bước vào hoạt động chiến dịch trên chiến trường Đồng Tháp Mười. Trung đoàn có tham gia vào các đợt hoạt động của Quân khu và tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

- Tháng 7/1977, theo mệnh lệnh của Quân khu, Trung đoàn chia làm 2, một nửa ở lại Sư đoàn 8 làm nòng cốt xây dựng Trung đoàn 2, Sư đoàn 8. Một nửa chuyển về tỉnh Đồng Tháp xây dựng Trung đoàn 320 làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới (gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 3, tổng quân số khoảng 600 người).

- Sau một thời gian hoạt động chiến đấu bảo vệ biên giới, ngày 6/1979, Trung đoàn 320 được giao nhiệm vụ phối hợp với cánh trái Sư đoàn 9 Quân đoàn 4 đánh chiếm huyện lỵ Piemcho, sau đó phát triển về bến phà Niek Lương, hội quân với Sư đoàn 9 và chốt giữ bến phà để Sư đoàn 9 tiến về thủ đô Phnompenh.

- Tại Campuchia, Trung đoàn đã đứng chân hoạt động chính trên địa bàn tỉnh Preyveng. Năm 1982, Quân khu 7 quyết định giải thể Trung đoàn 320, chia các cán bộ Tiểu đoàn về địa bàn huyện – xã hoạt động. Quân khu thành lập Tiểu đoàn 320, và đưa đi hoạt động ở tỉnh Cong pong Chàm.

- Tháng 6/1984, Quân khu 7 quyết định thành lập lại Trung đoàn 320, gồm các tiểu đoàn 502 – 504 – 506 (Tiểu đoàn 320 đổi tên thành tiểu đoàn 504), địa bàn hoạt động ở tỉnh Cong Pong Thom.

- Những năm tiếp sau, Trung đoàn thay Trung đoàn Gia Định hoạt động ở khu vực từ Bắc tỉnh Cong pong Chàm kéo dài đến sát Siem Riệp và Preah Vihia.
- Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, về nước, Trung đoàn nhận mệnh lệnh giải thể. Dù Trung đoàn 320 không còn, nhưng tỉnh Đồng Tháp vẫn khôi phục lại tên Trung đoàn 320, các tên song trùng của Trung đoàn 891 quân dự bị.

[2.19] Diễn biến về cơ cấu tổ chức một số đơn vị thuộc Mặt trận Tây Nguyên B3 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

20150607


1.            Tháng 11/1964, thành lập Viện quân y 1 trên cơ sở khung tiểu đoàn quân y của Sư đoàn bộ binh 325 mới vào chiến trường Tây Nguyên.

2.            Ngày 20/12/1965, thành lập Sư đoàn bộ binh 1 chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên B3. Trong biên chế Sư đoàn có 3 trung đoàn bộ binh là trung đoàn 320, trung đoàn 33 [Là trung đoàn 101B của Sư đoàn 325B], trung đoàn 66 và một số phân đội hỏa lực, bảo đảm. Sư đoàn trưởng: Đồng chí Nguyễn Hữu An, Chính ủy: Đồng chí Hoàng Thế Thiện.

3.            Ngày 20/12/1965, thành lập Sư đoàn bộ binh 6 chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế có 2 Trung đoàn là Trung đoàn 24A và Trung đoàn 88, tiểu đoàn pháo binh 200, 1 tiểu đoàn súng máy cao xạ, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 đại đội công binh. Do các Trung đoàn 24 và 88 đang trên đường hành quân vào chiến trường nên Sư đoàn 6 mới hình thành bộ tư lệnh, cơ quan sư đoàn và 1 số đơn vị trực thuộc.

4.            Tổng Cục Hậu cần quyết định thành lập Bệnh viện [Quân y viện] 211 có từ 400 đến 500 giường bệnh, tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên. Đây là bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối để thu nhận thương bệnh binh ở Tây Nguyên, Hạ Lào và bộ phận phía Nam của Đoàn 559 Trường Sơn. Chỉ huy bệnh viện có bác sỹ Võ Văn Vinh – Cục phó Cục Quân y làm viện trưởng. Đội ngũ cán bộ của bệnh viện được chọn trong các chuyên viên của 2 bệnh viện tuyến cuối của quân đội là Viện quân y 108 và Viện quân y 103. [Số 211 trong tên bệnh viện là phép cộng của 108 và 103, là số hiệu 2 bệnh viện lớn của Quân đội, có ý nghĩa là Viện 211 từ 2 bộ phận của 2 quân y viện lớn của quân đội lập nên – Rx chú thích thêm]
5.            Đầu tháng 4/1966, Sư đoàn bộ binh 325B được tăng cường vào đến chiến trường Tây Nguyên. Đến Tây Nguyên, Sư đoàn được mang phiên hiệu Nông trường 10 –NT10 tức Sư đoàn 10.

6.            Tháng 9/1966, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên B3 quyết định giải thể Sư đoàn bộ binh 6 và Sư đoàn bộ binh 10. Cán bộ 2 Sư đoàn này tăng cường cho cơ quan Mặt trận. Nguyên nhân giải thể là do việc đảm bảo hậu cần cho các đơn vị chủ lực lớn có nhiều khó khăn, điều kiện tập trung đánh lớn và thiết bị chiến trường còn nhiều hạn chế.

7.            Tháng 9/1966, thành lập Tiểu đoàn 101 độc lập của Mặt trận trên cơ sở chọn những đồng chí quê ở Việt Bắc, Tây Bắc trong Trung đoàn 101B.

8.            Giữa tháng 4/1968, Sư đoàn 325C vào đến chiến trường Tây Nguyên. Vào đến nơi Sư đoàn được gọi là Sư đoàn 6, gồm các trung đoàn bộ binh 95C và 101D.

9.            Tháng 5/1968, các Trung đoàn bộ binh 320, 33 và 174 lần lượt rời Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ theo mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh.

10.         Tháng 10/1968, Sư đoàn bộ binh 6 (Sư đoàn 325C) gồm các trung đoàn bộ binh 95C và 101D và các phân đội hỏa lực đảm bảo được Bộ Tổng tư lệnh điều vào miền Đông Nam bộ.

11.         Cuối năm 1968, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên tổ chức Lữ đoàn 66 gồm Trung đoàn bộ binh 66, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo cối. Nhưng sau một thời gian ngắn lại giải thể.

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

[3.31.9] Thư của bác Nguyễn Văn Đương, đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bác Nguyễn Văn Nhuận hoặc bà Dần, thôn Phú Đa - xã Đức Thượng - huyện Hoài Đức - Hà Tây, năm 1966 (tiếp...)

2015012829049.37 - Những bức thư thời chiến

Các bức thư đề ngày 4/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966. Bác Duơng cùng đơn vị với bác Thỏa và bác Quang Phúc [Rx đã đưa lên ở các post trước].

Ảnh chụp các bức thư gửi về cho mẹ:
alt

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015

[7.7] Trận tấn công quân Úc tại căn cứ (FSB) Balmoral của tiểu đoàn 2 và 3 - Trung đoàn 165 - Sư đoàn 7 Quân giải phóng miền Nam, rạng sáng ngày 28/5/1968

2015051753025

Dưới đây là tóm tắt diễn biến trận tấn công quân Úc tại căn cứ (FSB) Balmoral của tiểu đoàn 2 và 3 - Trung đoàn 165 - Sư đoàn 7 Quân giải phóng miền Nam, rạng sáng ngày 28/5/1968.

Căn cứ Balmoral hiện nay nằm tại xã Bình Mỹ - huyện Tân Uyên - tỉnh Bình Dương.

------
Lúc 2 giờ 30 ngày 28/5/1968, căn cứ Balmoral [Phía Nam bàu Hàm/Hàng – Rx chú thích] bị phía Bắc Việt tấn công bằng súng cối và súng phóng lựu, theo sau là đợt tấn bằng bộ binh vào căn cứ từ phía Nam. Cuộc tấn công này ngừng lại lúc 3 giờ 10, sau đó đó chuyển hướng và lực lượng phía Bắc Việt cố gắng cắt hàng rào căn cứ phía Đông Bắc. Lúc 3 giờ 40, có một lực lượng nhỏ ở hướng Đông căn cứ. Tất cả các hoạt động [của phía Bắc Việt] ngừng lại vào lúc 5giờ.
Máy bay, pháo binh tấn công bắn phá phía Bắc Việt liên tục. Pháo sáng liên tục được bắn lên bởi pháo binh Mỹ cho đến 5 giờ, khi ánh sáng mặt trời bắt đầu gây khó cho phía Bắc Viêt di chuyển và thu thập thương binh - tử sỹ.
Lúc 10 giờ 20, toán tuần tra đi về phía Đông Bắc phát hiện hàng loạt vệt máu.
Kết quả trận chiến: Có 42 lính Bắc Việt hy sinh.
Phía Úc xác định tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 – Trung đoàn 165 – Sư đoàn 7 tham gia tấn công.

Bản đồ khu vực:

alt

Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015

[3.31.8] Thư của bác Nguyễn Văn Đương, đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bác Nguyễn Văn Đoàn, thôn Phú Đa - xã Đức Thượng - huyện Hoài Đức - Hà Tây, năm 1966

2015012829049.32 - Những bức thư thời chiến

Các bức thư đề ngày 4/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966. Bác Duơng cùng đơn vị với bác Thỏa và bác Quang Phúc [Rx đã đưa lên ở các post trước].

Ảnh chụp các bức thư:

alt

alt

alt


alt

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

[7.6.2] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 - tiếp [Phần 3]

Link phần trước:[7.6.1] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 - tiếp


4. Ban ngày, ngày 19/12/1970

Một máy bay trinh sát OV10 được phái đến khu vực, phi công chỉ sử dụng ống nhòm thay cho thiết bị quan sát. Nhiệm vụ đầu tiên của phi công là kiểm chứng khu vực đỗ xe tải đã phát hiện buổi đêm (sáng sớm 19/12 – RX chú thích), đoạn kéo dài của con đường cụt, và đánh giá thiệt hại do ném bom.

Phi công xác nhận 2 xe tải bị phá hủy và các dấu hiệu cho thấy khu đỗ xe tải, kho nhiên liệu và vũ khí. Ngoài ra phi công còn thấy dấu hiệu của con đường kín. Những chỗ rừng cây bị bom oanh tạc buổi đêm nên phi công có thể nhìn thấy các phi xăng dầu và dấu vết xe tải. Phi công còn phát hiện thấy suối cạn chạy ra từ khu kho/ đỗ xe và nhìn thấy các dấu hiệu được che phủ bởi tán cây tre, thêm vào với tán lá rừng, cho phép xe tải chạy kín đáo và không thể phát hiện bởi máy bay trinh sát.

Các dấu hiệu khác khẳng định tầm quan trọng của trọng điểm này đối với quân đội bắc Việt, là mật độ pháo phòng không bắn lên. Kể từ lúc pháo phòng không bắn vào phi đội F4 rạng sáng 19/12 cho đến khi nó ngừng bắn vào 36 giờ sau, hệ thống phòng không này bắn vào bất cứ mục tiêu trên không nào.

Phi công có thể thấy các xe tải di chuyển và các hoạt động duới mặt đất, dấu hiệu của quân đội Bắc Việt đang cố gắng di chuyển hàng hóa hậu cần ra khỏi khu vực. Lập tức, phi công báo về Sở chỉ huy và yêu cầu oanh tạc thêm.

Hai máy bay F4 đến, và oanh tạc vào khu vực được phi công máy bay OV10 chỉ điểm bằng đạn khói Phốt pho trắng. Các máy bay F4 mang theo bom Mark 82 và CBU 24. Khu vực ném bom được mở rộng liên tục theo phương pháp “thử dần” cho đến khi phạm vi ném bom vượt quá 1000m chiều rộng và 1500 m chiều dài. Máy bay xuất phát từ sân bay Ubon (Thái Lan), Đà nẵng, Phan Rang, Kò rạt (Thái Lan), và tàu sân bay của hạm đội 7.

Sau khi oanh tạc các mục tiêu khác, máy bay quay lại khu vực ném bom và bắn phá hàng hóa quân sự bằng súng 20mm. Sau đó bay vòng trên khu vực để quan sát các vụ nổ/ cháy phát sinh. Cả khu vực chìm trong các đám cháy và nổ. Phi công báo cáo, có thể thấy các quả cầu lửa cao đến hàng trăm mét trên trời.

Sau 36 giờ, hệ thống phòng không bắt đầu giảm bắn và sau đó ngừng hẳn. Các cuộc oanh tạc tiếp diễn trong các ngày sau. Khi 1 máy bay hoàn thành các đợt oanh tạc và “làm sạch” khu vực, thì các máy bay khác đến và chuẩn bị oanh tạc tiếp tục. Lửa và khói có thể nhìn thấy ở khoảng cách 20 dặm (khoảng 36km). Xuất hiện hàng loạt các quả cầu lửa do nổ các phi xăng/ dầu loại 200 lít ở độ cao 100 – 150m, do các vụ nổ dưới đất bắn tung các phi xăng/ dầu này lên không trung.

Dưới mặt đất các xe vận tải cố gắng chạy thoát khỏi khu vực. Máy bay trinh sát bắn pháo khói vào các xe tải, chỉ thị mục tiêu cho máy bay ném bom oanh tạc.

Không ảnh ngày 19/12 cho thấy có 14 xe vận tải bị phá hủy. Có 1227 vụ nổ phát sinh và 64 vụ cháy phát sinh. Tổng cộng có 41 phi vụ oanh tạc, gồm 19 F4 – 18 F100 – 2 A7 – 2 B57 thực hiện.

[3.31.7] Thư của bác Quang Phúc, đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho vợ là Đặng Thị Hớn, Hội liên hiệp phụ nữ huyện Nghi Lộc - Nghệ An, năm 1966

2015012829049.30 - Những bức thư thời chiến

Bức thư đề ngày 15/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966, gửi về thăm vợ và các con. Bác này có thể ở 1 đơn vị chủ lực thuộc mặt trận B3 Tây Nguyên (Có thể ở Trung đoàn 66), cùng đơn vị với bác Thỏa (?), đã được đưa lên tại link: [3.31.6] Thư của bác Thỏa (?) đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bác Phạm Văn Vương, thôn Tân Giáp - xã Liên Minh - huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định, năm 1966

Nội dung bức thư cho biết, đây là bức thư thứ 7 viết về kể từ ngày xa nhà 26/8/1965, nhưng bác vẫn chưa nhận được bức thư nào của nhà gửi vào. Sau phần hỏi thăm cha mẹ, người vợ ở miền Bắc, bác Phúc hỏi thăm tới người con tên là Thu (Chắc là con gái), học lớp 3. Ngoài ra thư cũng nhắc đến 2 anh là Quang Thái, Quang Duơng, là 2 ngừoi con trai bác Phúc. Bác Phúc có dặn con trai xuống hầm mỗi khi có pháo cao xạ bắn máy bay Mỹ.

Ảnh chụp bức thư

alt

alt

Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

[3.31.6] Thư của bác Thỏa (?) đơn vị không xác định thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho bác Phạm Văn Vương, thôn Tân Giáp - xã Liên Minh - huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định, năm 1966

2015012829049.26 - Những bức thư thời chiến

Bức thư đề Gia Rai ngày 22/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966, gửi về thăm bố ở quê. Bác này có thể ở 1 đơn vị chủ lực thuộc mặt trận B3 Tây Nguyên (Có thể ở Trung đoàn 66)

Ảnh chụp bức thư

alt

alt

alt


alt

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

[3.31.5] Thư của bác Đỗ Thuyên, đơn vị thuộc Cục hậu cần B3 Tây Nguyên, gửi về địa chỉ là Đỗ Thị Vân - xưởng bánh kẹo thành phố Vinh - Nghệ An, năm 1966

2015012829049.20 - Những bức thư thời chiến

Hai bức thư đề ngày 10/11/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966, gửi tới người em tên là Vân và Khiêu.

Ảnh chụp bức thư

alt

alt


alt



alt

Bức thư thứ 2:


alt



alt

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

[7.6.1] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 - tiếp

Link phần trước:[7.6] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970 

3. Buổi đêm, ngày 19/12/1970
Đêm 18/12/1970, máy bay trinh sát O2 từ sân bay Đà Nẵng, bay vượt qua dãy núi trên biên giới Lào – Việt. Phi công đều đã có kinh nghiệm trong các nhiệm vụ bay đêm. Khoảng 1h00 ngày 19/12, máy bay vượt qua khu vực trọng điểm. Đêm trước, cũng chính phi công này, đã phát hiện và chỉ dẫn cho các phi vụ ném bom vào các chuyến phà hoạt động ở phía Bắc trọng điểm. Ngày 18, không ghi nhận hoạt động nào tại khu vực. Sau khi quay lên phía Bắc, phi công đã nhìn thấy từ 9 đến 12 xe vận tải đang di chuyển về phía nam. KHó xác định được số lượng chính xác xe vận tải, bởi các xe đều không bật đèn.


 alt

alt
Ảnh máy bay trinh sát chụp cho thấy các vụ nổ dây chuyền và đám cháy tại khu vực kho/ bãi đỗ xe vận tải tại trọng điểm Bạc, ngày 19/12/1970

Phi công báo về Sở chỉ huy, đã phát hiện mục tiêu và yêu cầu oanh tạc. Lập tức Sở chỉ huy thông báo lại, đã có máy bay F4 ở gần khu vực.

Phi công tiếp tục theo dõi xe vận tải với thiết bị nhìn đêm. Thiết bị nhìn đêm có thể khuếch đại ánh sáng lên gấp 400.000 lần. Hệ thống thiết bị mới, có khả năng khuếch đại ánh sáng lên tới 1 triệu lần.

TRước khi máy bay F4 đến, các xe tải đã đi vào khu vực rừng rậm. Phi công tăng độ khuếch đại lên lớn nhất và tiếp tục bám sát, bất chấp hệ thống phòng không đang khai hỏa. Các xe vận tải tiếp tục xuyên qua rừng rậm và di chuyển lên phía Bắc khu vực. Lúc này, 2 F4 xuất phát từ sân bay Ubon đã bay đến. Phi công O2 bắn pháo khói/sáng chỉ điểm mục tiêu. Các F4 mang bom Mark 82 và CBU24. Loạt bom thứ nhất, không có kết quả. Phi công máy bay O2 chỉ điểm F4 dịch về phía Đông Nam.  Lập tức các khẩu đội phòng không duới đất phát hỏa dữ dội. Loạt bom thứ 3 đã gây ra các quả cầu lửa lớn, kèm theo khói đen bốc lên cao hàng trăm mét.

Đánh giá thiệt hại do phi vụ gây ra là 4 xe tải bị phá hủy, và 2 chiếc hư hại nặng. Ngoài ra còn có 8 điểm nổ phát sinh nhỏ, 9 điểm nổ phát sinh trung bình, 11 điểm nổ phát sinh lớn (Nguyên chữ tiếng Anh: secondary explosion, dịch thành “điểm nổ phát sinh” do bom gây ra, có thể do cháy nổ xăng dầu, hàng hóa… - Rx chú thích.); 4 xe tải bị cháy, và 3 đám cháy liên tục cực lớn cao tới hàng trăm mét với khói đen, có thể là cháy dầu, xăng. Các đám cháy khác có thể là khu chứa vũ khí hoặc kho xăng dầu. Các đám cháy còn tiếp tục hơn 1 giờ sau, khi máy bay O2 bay vòng trên khu vực.

Khu vực trọng điểm tiếp tục bị oanh tạc trở lại vào lúc 4h00. Trong những ngày tiếp theo, sau khi bom đã làm “tan” hết lớp rừng rậm che phủ, thì phần lớn các đám cháy và nổ mới bắt đầu.

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

[3.31.4] Thư của bác Trương Hiền Nhu, đơn vị thuộc Cục Hậu cần B3 Tây Nguyên, gửi cho bà Lưu Thị Trinh, thôn Cung Gôi- xã Đại Xuân - huyện Quế Võ - Hà Bắc, năm 1966

2015012829049.15 - Những bức thư thời chiến

Các bức thư đề ngày 28/11/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966, gửi tới cha mẹ, ông, và vợ con tại quê nhà. Bức thư gửi vợ con, bác Nhu viết lúc 12 giờ đêm.

Ảnh chụp bức thư
alt


alt

alt



alt

alt

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

[3.31.3] Thư của bác Nguyễn Xuân Kỷ, gửi cho em là Nguyễn Xuân Ký, thôn Ngọc Nhị - xã Chuyên Mỹ - huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, năm 1966

2015012829049.12 - Những bức thư thời chiến

Bức thư đề ngày 15/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966

Ảnh chụp bức thư

alt

alt

alt

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

[7.6] Đường Trường Sơn/ đường 559/đường Hồ Chí Minh - Đợt đánh phá trọng điểm bản Bạc cuối tháng 12/1970

Trên tuyến đường Trường Sơn, bản Bạc là 1 cái tên rất đỗi quen thuộc với cả 2 phía, tên 1 bản nằm ven con sông Sê Kông, có vĩ độ ngang với vùng Thượng Đức – Quảng Nam. Đối với phía Mỹ cũng như phía ta, đó là 1 điểm thắt quan trọng nằm trong chuỗi các trọng điểm đánh phá/ bị đánh phá thường xuyên liên tục dọc tuyến đường chi viện của phía Bắc Việt xuyên qua đất Lào - tuyến đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. 
Tại đây, các phương tiện vận tải phải vượt sông bằng phà, hoặc bằng ngầm, là 1 chướng ngại thiên nhiên không dễ khắc phục đối với các lực lượng vận tải Bắc Việt. Xung quanh khu vực này có bố trí các điểm kho, khu đỗ xe vận tải..., và là 1 điểm đổi cung vận chuyển (Bắc trọng điểm Bạc - Nam trọng điểm Bạc) trên tuyến vận tải. Sau khi vượt qua Bạc, các chuyến hàng sẽ đi đến Chà Vằn, để rẽ ngang qua Quảng Nam vào khu 5, hay xuôi Nam xuống Phi Hà, vào B3 Tây Nguyên hay tiếp tục qua đất Campuchia vào B2 Nam Bộ.
Dưới đây là 1 tổng kết đợt đánh phá của phía Mỹ tại trọng điểm Bạc, từ ngày 19/12/1970 đến ngày 5/1/1971. Thông tin này được Rongxanh dịch từ năm 2011, nay đưa lên blog.

Bản đồ vị trí trọng điểm Bạc trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh

alt

Dưới đây là lược dịch báo cáo của phía Mỹ
-------------------------------

1. Ngày 19/12/1970, Không quân Mỹ đã phát hiện một khu kho/ bãi đỗ xe trên đường Hồ Chí Minh trên đất Lào, và dẫn đến 1 trong những chiến dịch oanh tạc đáng chú ý nhất trong chiến tranh Việt Nam. Từ ngày 19/12/1970 đến ngày 5/1/1971, không lực đã oanh tạc và tạo nên hàng loạt đám cháy/ nổ phát sinh trên các khu vực mục tiêu đơn lẻ. Thiệt hại về trang thiết bị và hậu cần đã gây ra khó khăn đáng kể cho quân đội Bắc Việt trong việc tiếp tế cho các lực lượng quân sự tại nam Lào, Campuchia và Nam Việt nam.

2. Ngày 10/10/1970, Không lực Mỹ bắt đầu chiến dịch đánh phá mùa khô, mục đích làm giảm sự chi viện về nguời và hậu cần của miền Bắc vào miền Nam Việt Nam. Trong tháng 11/1970, trung bình mỗi ngày thu nhận 252 tín hiệu có xe vận tải hoạt động, phần lớn là ở phía trung Lào. Ngày 27/11, cao điểm có tới 889 lần ghi nhận tín hiệu có xe vận tải hoạt động. Tổng số lần ghi nhận tín hiệu cho tháng 11/1970 là 7564. Trong tháng 12, số lần ghi nhận tín hiệu trong ngày tăng lên đến 665 lần. Số lượng tín hiệu xe vận tải lớn nhất trong 1 ngày, ghi nhận trong tháng 12, là 1037 và tổng cộng trong tháng là 20.601 lần. Khi các con sông gây ra lũ lụt trên đường Hồ Chí Minh trong tháng 10 và tiếp diễn qua tháng 11, các báo cáo đáng tin cậy cho thấy quân đội Bắc Việt đã trữ một khối lượng lớn hàng tại bờ bắc sông, để chờ đợi thời điểm vượt sông. Phân tích từ các thiết bị theo dõi di chuyển xe vận tải, tình hình thời tiết, và các hoạt động cung cấp của Bắc Việt, bộ phận tình báo không lực Mỹ đã nhận định có 1 tổ hợp kho lớn tại khu vực bản Bạc. Từ ngày 1/9/1970 đến 18/12/1970, 25 tin tức tình báo liên quan đến trọng điểm Bạc đã được ghi nhận. Có 2 điểm liên quan đến kho hàng đã được ghi nhận. Một do ảnh trinh sát cho thấy có 1 hầm và 1 khu vực kho lớn, ngày 4/9/1970. Một điểm khác ghi nhận ngày 20/11/1970 cho thấy trận địa pháo phòng không và điểm kho bên cạnh con đường. Không ảnh trinh sát cho thấy, đây có thể là khi vực đỗ xe và khu kho, cách trọng điểm Bạc từ 1 đến 6 km. Trong tháng 11/1970, các thiết bị theo dõi đã ghi nhận 4 lần rất nhiều xe vận tải đi đến trọng điểm Bạc từ phía Bắc và khởi hành về phía Nam. Các dấu hiệu chỉ ra rằng có 1 khu xuất hàng chính và khu kho gần trọng điểm.

Còn tiếp...

[3.31.2] Thư của bác Hoàng Kim Mừng, đơn vị thuộc Cục Hậu cần Mặt trận B3 Tây Nguyên, gửi về cho mẹ là Trữ ở thôn Đông Cao - xã Cẩm Thắng - huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh

2015012829049.11

Bức thư đề ngày 1/12/1966, bị lính Mỹ thu tháng 12/1966

Ảnh chụp bức thư

alt

Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

[3.31] Thư của bác Đinh Ngọc Thanh gửi cha là Vương Đình Ân - xóm Vĩnh Đức - xã Vĩnh Sơn - huyện Anh Sơn - tỉnh Nghệ An, năm 1966

2015012829049.3

Thư của bác Đinh Ngọc Thanh, đơn vị thuộc Cục Hậu cần Mặt trận Tây Nguyên, đề ngày 10/12/1966, gửi cha là Vương Đình Ân - xóm Vĩnh Đức - xã Vĩnh Sơn - huyện Anh Sơn - tỉnh Nghệ An, năm 1966.
Bức thư thứ 2 đề gửi bác Nguyễn Hồng Lượng, địa chỉ xóm Vĩnh Quang - xã Vĩnh Sơn - huyện Anh Sơn - tỉnh Nghệ An.
Bức thư thứ 3 đề gửi mẹ là Đinh Thị Lộc, xóm Vĩnh Đức - xã Vĩnh Sơn - huyện Anh Sơn - tỉnh Nghệ An
Bức thư bị lính Mỹ thu tháng 12/1966

Ảnh chụp các bức thư
alt

alt

alt

alt

alt

alt

[3.30] Thư của bác Bùi Quang Hạnh gửi bác Bùi Quang Hiệp - thôn Nhân Phú (?) - xã Lê Hồng - Thanh Miện - Hải Dương, năm 1966

2015010506077

Bức thư này đề ngày 19/12/1966 và có ghi địa điểm là Bà Gịa (Bà Rịa), bị lính Mỹ thu ngày 24/3/1967 tại Tây Ninh.

Ảnh chụp các bức thư

alt

alt

alt

alt

alt