Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

[3.38] Quyết định chuyển Đảng viên chính thức của bác Nguyễn Văn Hoa, sinh 8/1942, đơn vị Liên đội 9/Tiểu đoàn 9 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5, quê quán thôn Bình Giang – xã Minh Tân – huyện Gia Lương – tỉnh Hà Bắc, năm 1966

2016092029036

Các giấy tờ lính Mỹ thu được tại Bình Định, tháng 5/1967 gồm:

1. Quyết định chuyển Đảng viên chính thức của bác Nguyễn Văn Hoa, sinh 8/1942, đơn vị Liên đội 9/Tiểu đoàn 9 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5, năm 1966. Bác Nguyễn Văn Hoa sinh tháng 8/1942, quê tại thôn Bình Giang xã Minh Tân, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc.

Ảnh chụp quyết định kết nạp Đảng

2. Bản tự kiển điểm của bác Nguyễn Văn Hoa





3. Đơn xin vào Đảng của bác Trần Văn Tường, đề ngày 31/5/1966, sinh 2/1/1945, quê quán thôn 3 – xã Tri Chánh – huyện Kim Sơn – Ninh Bình, nhập ngũ 10/10/1963

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016

[3.30] Vài nét sơ lược về Trung đoàn 38 – Sư đoàn 2 Quân khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ

20160906

  1. Ngày 20/9/1954 tại xã Bình Thành huyện Bình Khê (Nay là huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định, tổ chức lễ ra mắt Trung đoàn 84. Chỉ huy Trung đoàn gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Thuận – Trung đoàn trưởng, Lê Hoàng – Quyền Chính ủy, Hùynh Hữu Anh – Trung đoàn phó, Nguyễn Trọng Xuyên – Trung đoàn phó. Biên chế gồm có 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 1 (Nguyên là Tiểu đoàn 69), Tiểu đoàn 2 (Nguyên là Tiểu đoàn 88), Tiểu đoàn 3 (Nguyên là Tiểu đoàn 375).

  2. Trung tuần tháng 5/1955, Trung đoàn rời miền Trung tập kết ra Bắc, đến Tĩnh Gia (Thanh Hóa) đóng quân.

  3. Ngày 1/7/1955 Trung đoàn được lệnh hành quân về xã Triều Dương, huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cùng với các Trung đoàn 93, 803 thành lập Sư đòan bộ binh 324. Từ đây Trung đoàn 84 đổi tên thành Trung đoàn 90.

  4. Đầu năm 1957, cùng với Sư đoàn 324, Trung đoàn di chuyển đội hình vào tỉnh Nghệ An.

  5. Tháng 2/1961, thực hiện Quyết định của Bộ Quốc phòng, Sư đoàn bộ binh 324 chuyển đổi thành Lữ đoàn bộ binh 324. Trung đoàn 90 được rút gọn thành 1 Tiểu đoàn, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 90.

  6. Tháng 3/1962 đến tháng 9/1962, Tiểu đoàn 90 chiến đấu tại vùng Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng.

  7. Tháng 12/1964, Tiểu đoàn 90 khôi phục lại thành Trung đoàn 90 – Sư đoàn 324, gồm các tiểu đoàn bộ binh 7 (Nguyên là Tiểu đoàn 924 biên phòng của Quân khu 4) – 8 (Nguyên là Tiểu đoàn 925 thuộc Trung đoàn 359 Quân khu 4) – 9 (Nguyên là Tiểu đoàn 90). Sau đó Trung đoàn sang hoạt động ở chiến trường Thượng Lào. Tháng 7/1965 Trung đoàn rút quân về nước.

  8. Cuối năm 1965 trung đoàn được lệnh sẵn sàng cơ động đi chiến đấu ở chiến trường đường 9 Bắc Quảng Trị. Đầu tháng 5/1966, Trung đoàn xuất phát. Cuối tháng 5/1966 Trung đoàn đến địa bàn huyện Cam Lộ – Gio Linh.

  9. Tháng 10/1966 đến tháng 3/1967 Trung đoàn quay trở lại hậu cứ ở Lệ Thủy – Quảng Bình. Tháng 3/1967 Trung đoàn quay lại hoạt động ở chiến trường Bắc Quảng Trị, cho đến cuối năm 1967 lại quy về hậu cứ.

  10. Cuối tháng 1/1968, Trung đoàn hành quân vượt sông Cam Lộ đến tập kết ở Tây Huế, sẵn sàng nhận nhiệm vụ vào thay Trung đoàn bộ binh 6 chiến đấu trong thành nội. Giữa tháng 2/1968 trung đoàn vào chiến đấu ở khu vực tây Huế.

  11. Ngày 23/2/1968 trung đoàn rút quan ra khu vực An Ninh Hạ và Xuân Hòa. Giữa tháng 3, 1 bộ phận của Trung đoàn hoạt động tại khu vực đông Quảng Điền. Tháng 6/1968 trung đòan (thiếu tiểu đoàn 9) rút về Hương Trà, rồi quay về hậu cứ Quảng Bình. Tháng 9/1968 tiểu đoàn 9 mới quay về hậu cứ Quảng Bình.

  12. Tháng 12/1968 trung đoàn hành quân vào chiến trường khu 5, tháng 2/1969 thì đến Quảng Nam, được biên chế vào Mặt trận 4 Quảng Đà, với phiên hiệu là Đoàn 60. Trung đoàn đặt hậu cứ tại Bàn Cờ. và tham gia chiến dịch Xuân 1969. Trong chiến dịch Thu năm 1969, trung đoàn hoạt động ở vùng thấp Nam Giang và vùng B Đại Lộc.

  13. Tháng 9/1969, Trung đoàn 38 được tăng cường thêm lực lượng và trở thành Lữ đoàn 38. Tuy nhiên sau 1 thời gian ngắn thực hiện, Lữ đoàn 38 lại trở thành Trung đoàn 38, với 3 tiểu đoàn là 17-18-19, trực thuộc Mặt trận 4. Từ đây cho đến tháng 5/1971 trung đoàn hoạt động ở khu vực Đại Lộc – Quế Sơn – Hiệp Đức Quảng Nam.

  14. Tháng 11/1971, Quân khu 5 thành lập Sư đoàn 711 gồm các Trung đoàn 38, 31 và Trung đoàn 9. Trung đoàn hoạt động ở khu vực Quế Sơn – Hiệp Đức.

  15. Tháng 6/1973 Quân khu 5 giải thể Sư đoàn 711, thành lập Lữ đoàn bộ binh 52. Trung đoàn 38 được biên chế về Sư đoàn 2.

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

[2.29] Vài nét sơ lược về Sư đoàn 711 quân khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

20160815

Ngày 7/11/1971, nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 711, với các Trung đoàn 31, 38, là các Trung đoàn thuộc Mặt trận 44/ Mặt trận 4/ Mặt trận Quảng Đà. Về sau Sư đoàn được bổ sung thêm Trung đoàn 9 từ đất lửa Vĩnh Linh vào.

Lúc này Trung đoàn 38 gồm có các Tiểu đoàn 17, 18, 19 được đổi tên thành Tiểu đoàn 4, 5, 6. Như vậy ở đồng bằng Quân khu 5 lúc này có 2 sư đoàn, là Sư đoàn 711 ở phía Bắc và Sư đoàn 3 Sao Vàng mới được khôi phục lại ở phía Nam.

Cuối tháng 3, đầu tháng 4/1972, Sư đoàn 711 tham gia đợt hoạt động Xuân Hè, nhận lệnh hoạt động ở khu vực Hiệp Đức - Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Trung đoàn 38 nhận lệnh đánh chiếm cao điểm Chia Gan, sau đó tổ chức đánh địch lên phản kích và sẵn sàng tiến công giải phóng quận lỵ Hiệp Đức. Trong lúc này thì Trung đoàn 31 nhận lệnh tiến công theo đường 16 về huớng Quốc lộ 1.
Chiến dịch tiến công Xuân - Hè năm 1972 trên huớng Quảng Nam đến ngày 2/6 thì kết thúc.

Đợt hoạt động Hè - Thu năm 1972, Sư đoàn 711 nhận lệnh mở chiến dịch tiến công căn cứ Cấm Dơi, giải phóng quận lỵ Quế Sơn. Kế hoạch tác chiến của Sư đoàn 711 gồm 3 bước. Bước 1 là đánh bóc vỏ, diệt các cứ điểm Hòn Chiêng, Bàn Thùng, Động Mông - Đá Hàm. Bước 2 là tổ chức chốt giữ các điểm cao đã chiếm, đánh bại lực lượng địch ra phản kích, giữ thế và tạo thế để tiến hành bước 3 là tiêu diệt cụm cứ điểm Cấm Dơi - Quế Sơn.

Tháng 6/1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định tổ chức lại lực lượng, giải thể Sư đoàn 711, thành lập Lữ đoàn bộ binh 52.

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2016

[5.30] Thông tin về Trung đoàn 141/Sư đoàn 312 chi viện vào Nam, tại Tây Nguyên cuối tháng 3/1966

2016072481048

Duới đây là thông tin tóm tắt về hành trình chi viện vào miền Nam chiến đấu của Trung đoàn 141 – Sư đoàn 312 vào đầu năm 1966

Với Trung đoàn 141 ngày 1 tháng 1 năm 1966, đồng chí Lê Quang Đạo nói: “… Là đơn vị thí điểm của Bộ – đơn vị đầu tiên mang đầy đủ vũ khí trang bị chiến đấu, hành quân vào B2 – “ông Cụ” (mật danh của chiến trường miền Đông Nam Bộ) phải bảo toàn cả người và vũ khí. Dọc đường hành quân không tác chiến. Nếu gặp địch thì tìm cách vòng tránh, trường hợp phải tác chiến thì phải tiêu diệt gọn, không để một tên sống sót…”. Sau khi giao nhiệm vụ đồng chí đọc mệnh lệnh hành quân. Toàn bộ lực lượng của trung đoàn được chia làm bốn khối.
Khối đi đầu là Tiểu đoàn bộ binh 2 do trung tá Trung đoàn trưởng Vũ Chát và thiếu tá – Chính ủy Nguyễn Đức Bao chỉ huy. Cán bộ Tiểu đoàn gồm đồng chí Phùng Xuân Vĩnh – Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Truỳ – Chính trị viên.
Khối thứ hai là Tiểu đoàn bộ binh 3 do thiếu tá Doãn Khiết – Trung đoàn phó và thiếu tá Đặng Đình Cương – Phó Chính ủy chỉ huy. Cán bộ Tiểu đoàn là đồng chí Đỗ Thôn – Tiểu đoàn trưởng và Nguyễn Văn Phòng – Chính trị viên.
Khối thứ ba là ba cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực thuộc do đồng chí Nguyễn Minh Lục – Tham mưu trưởng Trung đoàn chỉ huy.
Khối thứ tư là Tiểu đoàn bộ binh 1 do đồng chí Nguyễn Văn Nhật – Chủ nhiệm chính trị và đồng chí Hậu – Chủ nhiệm hậu cần chỉ huy; cán bộ Tiểu đoàn gồm đồng chí Nguyễn Khắc Phối – Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Hiếu – Chính trị viên.
Mỗi khối hành quân cách nhau hai ngày đường. Đoạn đầu tiên hành quân bộ từ nơi đóng quân ra ga Phổ Yên thuộc huyện Đa Phúc – Vĩnh Phúc. Tiếp theo lên tàu hỏa tới ga Đò Lèn huyện Hà Trung – Thanh Hóa rồi xuống tàu hành quân bộ qua sông Bến Hải, vượt Trường Sơn vào đất”ông Cụ”.
Sáng sớm ngày 6 tháng 1 năm 1966, vào cuối đông nhưng ở vùng rừng, đồi xóm Hội huyện Đa Phúc còn khá lạnh. Khối thứ nhất của Trung đoàn 141 bắt đầu hành quân, gần 9 giờ bộ đội lên tàu. Sau khi đi kiểm tra khắp lượt, thấy yên tâm, đúng 9 giờ 15 phút cùng ngày, Trung đoàn trưởng Vũ Chát phát lệnh “tàu chuyển bánh”. Rời ga Phổ Yên, trên đầu tàu lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “Đoàn kết – Anh dũng – Chiến thắng” phần phật bay trong gió. Sáng sớm các ngày 8, 10, 12 tháng 1 năm 1966 các khối hai, ba, bốn của Trung đoàn 141 tiếp tục lên đường.
Đêm 30 Tết, khối đi đầu là Tiểu đoàn 2 dừng chân đón giao thừa ở Đức Thọ – Hà Tĩnh. Ngày mùng 1 Tết Bính Ngọ, đội hình vào tới Hương Khê, quyết tranh thủ vượt đèo Ngang vào đất Quảng Bình, Quảng Trị rồi vượt sông Bến Hải ngay trong những ngày Tết và sau Tết.
Từ nửa đầu những năm 60 của thế kỷ XX, sau Đồng khởi Bến Tre, Đảng, Nhà nước ta đã cử nhiều đoàn cán bộ và một vài đơn vị gọn nhẹ vượt Trường Sơn vào miền Nam để cùng đồng bào Nam Bộ xây dựng lực lượng cách mạng, chiến đấu. Đã nhiều đoàn hành quân trên con đường này nhưng “chưa có đoàn nào đông quân, mang trang bị nặng nề, cồng kềnh như đoàn 304 (Mật danh khi hành quân của Trung đoàn 141) – đó là lời nói của các đồng chí giao liên với khối đầu tiên của Trung đoàn 141.
Sau hơn ba tháng hành quân, vào tới Tây Nguyên, đang cao điểm mùa khô, vẫn còn nhiều núi, đồi cao. Khi đi trong rừng già còn đỡ, khi qua những khu rừng dầu thưa, những trảng tranh cháy xém với những cây tràm, cây thành ngạnh, cây lá gai, cây cọ ven các suối đá khô khốc (ở vùng ven hạ Lào) mới thấy cái nắng nóng như thiêu như đốt, làm teo tóp cả da thịt con người. Cực nhất, đói nhất và cũng căng thẳng nhất là đoạn từ trạm Đức Cơ tới trạm sông Kép Bạc. Hầu hết các khối khi qua đây đều phải chờ gạo hoặc tự tổ chức đi lấy gạo. Bộ đội phải ăn cháo nấu với củ chụp, lá môn (tự đào hái). Ngứa rát cổ họng, nhưng vì đói vẫn phải nuốt. Có khối như khối Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 141 còn bị địch phục kích, đồng chí Đặng Đình Cương, Phó Chính ủy bị mất tích
Gần giữa tháng 5 năm 1966, Trung đoàn 141 vào tới nơi cũng là lúc địch bắt đầu thực hiện bước hai cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất ở miền Đông Nam Bộ.
Ghi nhận của phía Mỹ về sự xuất hiện của Trung đoàn 141 tại Tây Nguyên như sau:
– Vào hồi 10h sáng ngày 27/3/1966, tại khu vực suối Ia Krel, lực lượng Mỹ đã phục kích khoảng 1 trung đội quân đội Nhân dân Việt Nam, kết quả có 7 người lính quân đội nhân dân Việt Nam bị hy sinh. Thông tin phía Mỹ ghi nhận những nguời lính này thuộc Đại đội 8 – Tiểu đoàn 2 – Trung đoàn 141/ Đoàn chi viện số 304 – Sư đoàn 312
– Khu vực này bây giờ thuộc xã Ia Dom – huyện Đức Cơ – tỉnh Gia Lai.

- Link ảnh vệ tinh Google khu vực: http://wikimapia.org/#lang=vi&lat=13.800095&lon=107.507744&z=15&m=b&v=2&search=13%C2%B047.9442%27N%2C%20107%C2%B030.5274%27E

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

[3.37] Quyết định đề bạt cấp bậc của bác Trần Xuân Duyên, đơn vị thuộc Trung đoàn 12 Quyết Thắng – Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5/ Trung đoàn 18A/F325 – quê tại Chi Lăng – Thanh Miện – Hải Dương, năm 1967

2016071724032

Các giấy tờ của bác Trần Xuân Duyên, do lính Mỹ thu được ngày 7/5/1967 tại Bình Định. Các Giấy tờ gồm:

1. Quyết định đề bạt cấp bậc cho đồng chí Trần Xuân Duyên, từ tiểu đội bậc trưởng lên Trung đội bậc phó, đề ngày 7/2/1967

2. Các giấy tờ khác gồm: Giấy khen, Giấy giới thiệu, Giấy chứng minh (Mờ không đọc rõ) cấp cho bác Duyên ở đơn vị 707A/ Đoàn chi viện 707A khi đi vào Nam.

Ảnh chụp các giấy tờ







Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

[5.29] Thông tin về Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 803 hay Trung đoàn 1 – Sư đoàn 324 QK Trị Thiên, tháng 4/1970

2016070360029

Qua facebook Kỷ vật kháng chiến (https://www.facebook.com/kyvatkhang.chien), một thân nhân Liệt sỹ có nhờ tìm kiếm thông tin về liệt sỹ, kèm theo ảnh chụp Giấy báo tử và Trích lục thông tin Liệt sỹ. TRích lục thông tin Liệt sỹ có ghi Liệt sỹ hy sinh trong trường hợp chiến đấu, tại đồi 465 dốc Mây, ngày 29/4/1970:

Gia đình tôi có anh là Liệt sỹ Trần Quang Chất, tôi xin gửi kèm trích lục của Tỉnh đội Nghệ an. Tôi kính mong Kỷ vật kháng chiến xem xét và trợ giúp gia đình tìm hài cốt hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của LS.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Qua tìm hiểu thông tin, Rongxanh thấy phía Mỹ có ghi nhận hoạt động của Tiểu đoàn 1/ Trung đoàn 803/ Sư đoàn 324, và thấy có cao điểm 465 gần đó, nay thuộc địa phận xã Phong Mỹ – huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Bản đồ vị trí cao điểm 465:



Link ảnh vệ tinh Google map:

http://wikimapia.org/#lang=vi&lat=16.490493&lon=107.100220&z=11&m=b&v=2&search=16%C2%B024.997%27N%2C%20107%C2%B013.9555%27E


[3.36] Giấy ra viện của cán bộ chiến sỹ Tiểu đoàn 400 cối 120mm - Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5, năm 1966

2016070310019

Các giấy tờ này lính Mỹ thu được ngày 7/2/1967 tại Bình Định, gồm:

7 Giấy ra viện, do bác sỹ Vũ Quang Dũng, Trưởng Bệnh xá 700 (Mật danh của Tiểu đoàn quân y – Sư đoàn 3 Sao Vàng), cấp cho các cán bộ chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 400 súng cối 120mm của Sư đoàn 3 Sao vàng, nằm viện từ khoảng 10/12/1965 đến 16/1/1966 để điều trị bệnh sốt rét, gồm:

1. Nguyễn Văn Tài, 28 tuổi, Trung đội phó, quê: Hồng Phong – Nam Sách – Hải Dương

2. Phạm Văn Luận, 40 tuổi, Đại đội trưởng, quê: thành phố Bắc Giang, tỉnh Hà Bắc

3. Phạm Hữu Nham, 29 tuổi, chiến sỹ, quê An Tập – Gia Lương – Hà Bắc

4. Nguyễn Văn Phức, 27 tuổi, chiến sỹ, quê: Rộc Phương Mau – Quế Võ – Hà Bắc

5. Hoàng Văn Mạn, 20 tuổi, chiến sỹ, quê: Lam Phương Tiến – Trường Mỹ – Hà Đông

6. Vũ Văn Thảo, 26 tuổi, chiến sỹ, quê Tiến Dũng – Yên Dũng – Hà Bắc

7. Nguyễn Văn Thùy, 20 tuổi, chiến sỹ, quê: Nghĩa Khê – Tiên Sơn – Hà Bắc



Ảnh chụp các Giấy ra viện (Hầu hết bị mờ không đọc được)


Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016

[5.28] Sự kiện Ban chỉ huy Trung đoàn 320 bị hy sinh trong chiến dịch Mỹ và VNCH tấn công sang đất Campuchia tháng 5/1970

2016062076041

Tại link này: 

http://www.kyvatkhangchien.com/2015/06/220-vai-net-tom-tat-ve-lich-su-trung.html

có sơ lược thông tin về sự hy sinh của Ban chỉ huy Trung đoàn 320, tháng 5/1970
Ngày 4/5/1970 lực lượng Mỹ và VNCH tổ chức trận càn đánh trúng vào khu vực Trung đoàn 320 vừa tạm dừng chân, đã làm Trung đoàn bị thiệt hại nặng, trong đó có cả Ban chỉ huy Trung đoàn.

 Phía Mỹ ghi nhận 1 đơn vị thuộc Sư đoàn 9 VNCH tấn công sang đất Campuchia ngày 4/5/1970 có đánh trúng vào 1 bộ phận Trung đoàn Quân Giải phóng, làm 22 người hy sinh, trong đó có Trung đoàn trưởng, Chính ủy Trung đoàn, Tham mưu trưởng Trung đoàn.
Dưới đây là bản đồ khu vực giao chiến:

Rongxanh đã tìm kiếm thử trên website http://chinhsachquandoi.gov.vn thì có 1 trường hợp là chiến sỹ cơ yếu của Trung đoàn 320, hy sinh ngày 4/5/1970, tuy nhiên không có thông tin rõ ràng là chiến sỹ này có nằm trong Bộ phận cơ yếu của Ban chỉ huy Trung đoàn 320 hay không.
http://chinhsachquandoi.gov.vn/LietSi/96601
Họ và tên:Nguyễn Huy Hiền
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:
Nguyên quán:Minh Lăng, Thư Trì, Thái Bình
Trú quán:Minh Lăng, Thư Trì, Thái Bình
Nhập ngũ:10/4/1967
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh:E320
Cấp bậc:Hạ sỹ
Chức vụ:Cơ yếu
Ngày hi sinh:04/5/1970
Trường hợp hi sinh:Chống càn
Nơi hi sinh:
Nơi an táng ban đầu:,
Toạ độ:
Vị trí:
Nơi an táng hiện nay:
Vị trí mộ:
Thân nhân khác:Đỗ Như Lăng, Đỗ Thị Lợ
Địa chỉ:Cùng quê

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

[3.35] Giấy ra viện và Giấy chứng thương của cán bộ chiến sỹ thuộc Sư đoàn 3 Sao vàng QK5, năm 1967

2016061218028

Các giấy tờ này do lính Mỹ thu được tại Bình Định ngày 11/1/1967, gồm:

1. Sáu (6) Giấy ra viện, thời gian khoảng 17/2/1966 đến 28/6/1966, do bác sỹ Trung Lưu và Chỉ huy Liên đội 600 (Tiểu đoàn 600 quân y – Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5) ký; và do bác sỹ Trần Thị Lý (?), bệnh viện 70 dã chiến/ Sư đoàn 3 Sao Vàng ký, cho các chiến sỹ thuộc Liên gia 8/ Tiểu đoàn 8 – ĐƠn vị 527/ Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng, gồm:

– Đ/c Nguyễn Văn Kỷ, 20 tuổi, Quê quán tại thôn Xuân Hòa, xã Phú Cát, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Đ/c Trương Vĩnh Tương, 20 tuổi, quê tại xã Quốc Toản, huyện Quản (Quảng?) Nguyên, tỉnh Cao Bằng

– Đ/c Nguyễn Bích, 20 tuổi, giao liên, quê xã Yên Hương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ

– Đ/c Trần Hữu Mãnh, 17 tuổi, quê xã Điện Bàn, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

– Đ/c Nguyễn Văn Phó, 20 tuổi, quê tại Thái Bình

2. 03 Giấy chứng thương, đề ngày 19/5/1966, do bác sỹ Nguyễn Bá Nông, Chủ nhiệm quân y đơn vị 527/Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng, cấp cho các quân nhân thuộc Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, bị thương do chống càn hôm 18/5/1966 tại huyện Phù Cát – Bình ĐỊnh, gồm:

– Đ/c Nguyễn Thế KHóa, 28 tuổi, Trung đội trưởng, quê Xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

– Đ/c Nguyễn Văn Chuyền, 25 tuổi, quê xã Đông Xuân, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc

– Đ/c Đinh Trọng Thắng, 20 tuổi, quê xã An Lễ, huyện Phú Đức, tỉnh Thái Bình

3. 03 giấy khám bệnh, ngày 18/4/1966 đến 5/6/1966, do y sỹ Đinh của Bệnh xá K202 và Y503, cấp cho 3 cá nhân thuộc Liên đội 8 – Sông Hồng/ Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, gồm: Đinh Văn Đáng 23 tuổi, Nguyễn Quang Thôi 25 tuổi Trung đội trưởng, Nguyễn Trung Ninh là Chính trị viên Đại đội

4. 03 giấy chứng nhận thương tật, ngày 18/4/1966 và 20/6/1966, ký bởi y sỹ Đinh thuộc Bệnh xá Y503 và K202 và Bác sỹ Nguyễn Phát Tường, Ban Dân y tỉnh Bình Định, cấp cho các cá nhân thuộc Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, gồm: Nguyễn Trung Ninh – Chính trị viên Đại đội, Nguyễn Quang Thôi – Trung đội trưởng, Nguyễn Đình Thỏa

Hình ảnh các giấy tờ trên (Không xem được rõ nét):

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

[6.9] Hình ảnh vệ tinh về sự phát triển của một số đảo trong quần đảo Trường Sa, do Việt Nam kiểm soát

20160605

Ảnh vệ tinh chụp một số đảo trong quần đảo Trường Sa, do Việt Nam kiểm soát, cho thấy sự phát triển về diện tích và các công trình trên đảo (Nguồn từ website http://amti.csis.org)

1. Đảo Trường Sa

2. Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay)

3. Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe)

4. Đảo Đá Tây (West reef)

5. Đảo Sơn Ca (Sin Cowe)

6. Đảo Phan Vinh (Pearson Reef)

7. Đảo Trường Sa Đông

8. Đảo Sinh Tồn Đông (Grierson Reef)

9. Đảo Núi Le (Cornwallis south reef)

Phần phía Đông Nam





Phần phía Tây Nam

[6.8] Bản quy hoạch nội thành tp Hà Nội thời kỳ Pháp chiếm đóng, năm 1943

20160605 Bản quy hoạch này Rongxanh thấy trên mạng, giới thiệu với mọi người. Nếu HN thực hiện được theo bản quy hoạch này thì sao nhỉ?





Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

[3.35] Cựu chiến binh Mỹ cần tìm thân nhân Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 66, hy sinh khi đánh trận Cao điểm 875 Dakto để trao trả lại kỷ vật

20160520
Trong nhóm VietnamWarHistoryOrg trên face book, có 1 nick là Stephen Doc Watson‎ (Rongxanh đoán có lẽ là Cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam) muốn trao trả lại một số kỷ vật thu được từ thi thể của 1 sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam thuộc Trung đoàn 66, hy sinh trong trận Cao điểm 875/ Dakto

Nội dung bức thư bằng tiếng Anh:

From the Hill 875, Dak To battlefield, taken from a fallen officer of the NVA 66th regiment. Entrusted to me by Larry McCabe, the warrior who brought it back. (Erik, I've sent two PM's per your request, and Larry has approved of returning it to the family of the Vietnamese officer.)
Rongxanh đang hỏi về thời gian lấy các đồ vật này từ thi thể người lính Bắc Việt.
Ảnh chụp các kỷ vật:


Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

[3.34] Sổ ghi chép của bác Dương Hồng Cử, đơn vị thuộc Đoàn 1506 (Bộ Tư lệnh Công binh), quên quán thôn Đào Xuyên – xã Đa Tốn – huyện Gia Lâm – Hà Nội, năm 1967

2016051520031 – Những kỷ vật thời chiến

Cuốn sổ ghi chép của bác Dương Hồng Cử, do phía Mỹ thu được ngày 12/4/1967, tại huyện Hải Lăng, Quảng Trị (Tại khu vực giáp giới huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên – Huế).
– Phía Mỹ có thông tin bác Cử thuộc Đoàn 1506 (Trường kỹ thuật công binh đóng tại Ba Vì – Hà Tây).
– Bác Cử nhập ngũ ngày 30/1/1966, quân số thuộc Đại đội 11 – Đoàn 1506/ Trường kỹ thuật công binh/ Bộ Tư lệnh công binh Quân đội nhân dân Việt Nam. Đơn vị có số hòm thư 41139 FM.
– Một số thông tin về quá trình vào Nam: Đơn vị này đến Nam Đàn – Nghệ An ngày 11/12/1966, tiếp đó tiến vào Vĩnh Linh. Ngày 11/1/1967, đơn vị đến Lệ Thủy – Quảng Bình. 18/1/1967 vượt sông Bến Hải, đến Co Nhi Phuong – Hải Phong – Hải Lăng – Quảng Trị ngày 14/3/1967, tham gia chống càn ngày 23/3/1967.

Ảnh chụp trang đầu cuốn sổ

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016

[3.33.7] Bản tự nhận xét của bác Đặng Ngọc Đức, thượng sỹ Trung đội trưởng, đơn vị thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, năm 1967

2016021719032.24 – Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bản tự nhận xét cá nhân của bác Đặng Ngọc Đức, sinh năm 1928, thượng sỹ Trung đội trưởng, không có thông tin về quê quán, đề ngày 1/5/1967, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967

 

 

 

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016

[7.9.2] Diễn biến trận chiến đấu của Trung đoàn xe tăng 273/Quân đoàn 3 tại khu vực lăng cha Cả sáng 30/4/1975 – P3

Link các phần liên quan:

[7.9.1] Trao đổi với tác giả chụp các bức ảnh về trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975 - P2

[7.9] Trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975

 

 

 

Sau đây là diễn biến trận chiến đấu của Trung đoàn xe tăng 273 phối hợp với Trung đoàn bộ binh 24 tại khu vực Lăng cha Cả sáng ngày 30/4/1975.


– Đúng 5h30 sáng ngày 30/4/1975, tiểu đoàn tăng 1 và Trung đoàn bộ binh 24 được lệnh xuất kích.Thê đội 1 gồm có 7 xe tăng T54 cùng 4 xe K63 dẫn đầu tiến vào ngã tư Bảy Hiền. 

– 8h quân ta chiếm được ngã tư Bảy Hiền và bắt đầu tiến vào khu vực Lăng Cha Cả.

  – 9h20 phân đội đi đầu cách ngã ba Lăng Cha Cả 100m, 2 xe tăng T54 bắn vào ngã ba và các vị trí xung quanh lăng Cha Cả. Địch ở cổng sân bay, cổng Bộ Tổng tham mưu và trên các nhà cao tầng kháng cự quyết liệt. 

– Lúc 9h30, 2 xe tăng T54 cùng bộ binh xung phong vào cổng sân bay. Vượt qua ngã ba lăng Cha Cả chừng 100m, xe đi đầu bị trúng đạn bốc cháy, khói bụi mù mịt không quan sát được. Xe thứ 2 tiến qua ngã ba cũng bị bắn cháy. Xe K63 của đại đội trưởng bám sát chi viện cho 2 xe T54 cũng bị bắn cháy. Phân đội đi đầu của Tiểu đoàn tăng 1/ Trung đoàn xe tăng 273/Quân đoàn 3 đã không còn đủ sức tiếp tục đột phá. 

– Đại đội tăng khác (có 8 xe tăng T54) của Tiểu đoàn tăng 1 được điều lên thay cho phân đội đi đầu. Hai khẩu pháo 85mm được đưa lên để bắn trực tiếp, chi viện cho bộ binh và xe tăng. Tiểu đoàn 5 bộ binh vận động lên áp sát địch hỗ trợ cho xe tăng thiết giáp xung phong. 9h30 đại đội này được lệnh xuất phát, tuy nhiên bị máy bay địch đánh trúng đội hình nên hỏng mất 2 xe, còn lại 6 xe, được lệnh đưa 4 xe lên tăng cường cho phân đội đi đầu. 

– 10h phân đội tăng cường tới ngã ba Lăng Cha Cả, các xe được lệnh dừng lại quan sát địch và đường tiến, chờ bộ binh tiếp cận địch mới xung phong. 

– Xe 326 của đại đội đi đầu bị địch bắn cháy. Đại đội trưởng ở xe thứ 3 phát hiện được địch từ phía cổng Bộ tổng tham mưu bắn sang và lệnh cho các xe tập trung hỏa lực tiêu diệt. 

– Xe 815 đi thứ 2 tiếp tục tiến, lại bị địch bắn cháy. Năm xe bị cháy làm tắc đường.

 – Phát hiện thấy một đường ở phía tây chùa Lăng Cha Cả, đại đội trưởng lệnh cho xe số 353 rẽ sang trái tiếp tục xung phong. Xe này tiến chừng 100m tạm dừng bắn 1 phát đạn pháo thì lại trúng đạn địch, hỏng nặng.

Như vậy tại khu vực này có tất cả 5 xe tăng T54 và 1 xe thiết giáp K63 bị cháy.

Không ảnh này cho thấy rõ vị trí 5 xe tăng cháy. Nhóm 3 xe ở phía trên có 1 xe số hiệu 815, chiếc xe đang bị bốc cháy qua nhìn số hiệu trên tháp pháo Rongxanh đoán mang số hiệu 326. Ngoài ra chữ T ở phía mũi xe tăng và phía sau tháp pháo, Rongxanh cho rằng viết tắt chữ "Ta" để nhận biết xe tăng ta. Chữ ngả qua màu vàng: Có lẽ do bị cháy nên màu trắng ngả qua vàng.

 

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

[7.9.1] Trao đổi với tác giả chụp các bức ảnh về trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975 - P2


10 năm trước (Tháng 4/2006), khi tôi (Rongxanh) thấy tấm hình này trên trang chuyên về ảnh là Corbis, đã đưa lên diễn đàn Ttvnol.com, ngay lập tức đã có ý kiến nghi ngờ về tính xác thực của những bức hình này. Các ý kiến này đều cho rằng đây là những bức ảnh giả, làm gì có việc tổn thất lớn như vậy của phía Quân Giải phóng trong thời điểm này, khi quân lực VNCH đã tan rã!!

Tuy nhiên, có bác Altus đã mail hỏi tác giả những bức ảnh chụp này, và đã nhận được phản hồi. Nội dung các email trao đổi như sau:

Ngày 11/5/2006
Các bác,
Các bác tranh luận hăng quá Tôi đã liên lạc được với phóng viên Jacques Pavlovsky, và sau đây là hai bức thư trả lời của ông:
''Bonsoir,
Je vais essayer de répondre à vos questions.
La première photo ( celle des chars en feu) a été faite à Saïgon, à l''entrée Nord ( ?) de la ville, dans un quartier de la périphérie, le lendemain de l''entrée des Troupes Nord Vietnamiennes.
La légende ne doit pas être bonne, cette photo a été prise le premier mai et non comme indiqué le 30 avril.Comme nous avons été bloqué, avec nos films, à Saigon de nombreux jours avant d''aller à Ventiane, il est possible que ma rédaction de l''époque est faussement légendée cette image.
Ces chars contenaient à l''intérieur des obus qui de temps en temps
éclataient sous la chaleur des flammes.Quant à la deuxième ( les jeunes femmes en bicyclette) elle est faite au même endroit un ou deux jours après le première, mais je n''en ai pas un souvenir précis. Les chars avaient été mis sur le coté de la rue pour laisser la circulation. Il faudrait regarder les planches-contact. C''est aujourd''hui très difficile... mais possible ! Quand j''irai à Paris, ce qui est rare, j''aurai peut-être accès au gardiennage ou sont bloquées les images non numérisées. Pas de promesse mais j''essaierai.
Si vous avez d''autres questions, je tacherai d''y répondre. N''hésitez pas ! En 1979, j''ai passé de nombreuses semaines en mer de Chine, à Poulo Bidong, etc..avec l''Ile de Lumière;
Bien cordialement.
Jacques PAVLOVSKY''

Xin chào,
Tôi sẽ thử trả lời những thắc mắc của ông.
Tấm ảnh thứ nhất (mấy cái xe tăng đang cháy), chụp ở Sài gòn, tại một cửa ngõ phía Bắc (?) thành phố, một khu ngoại ô, một ngày sau khi quân Bắc Việt vào thành phố Chú thich (trong sách) không chính xác, ảnh này chụp ngày 01/05 chứ không phải 30/04 như họ viết. Hồi đó bọn tôi bị kẹt, cùng với phim, ở Sài Gòn nhiều ngày trước khi sang được Vientian, có lẽ tòa soạn của tôi đã ghi nhầm ngày.
Ba chiếc tăng này chứa nhiều đạn bên trong và đạn cứ chốc chốc lại nổ vì lửa nóng. Tấm ảnh thứ hai (có mấy cô gái đi xe đạp), được chụp cũng ở chỗ ấy, sau khi chụp tấm thứ nhất một hoặc hai ngày, bây giờ tôi không còn nhớ chính xác. Lúc này mấy cái xe tăng đã được đẩy sang lề đường để giải tỏa giao thông. Có khi tôi phải xem lại bộ ảnh gốc (planche-contact là ảnh chụp xếp theo thứ tự như ở hiệu ảnh rửa thử index làm mẫu, kiểu như slide-show, nhìn có thể nhớ lại là ảnh nào chụp trước hay sau ảnh nào, có thể giúp nhớ lại nhiều điều) Cái này hơi khó, nhưng có thể làm được...Bao giờ tôi có dịp lên Paris, mà tôi ít đi lắm, có thể tôi sẽ vào được chỗ lưu trữ ảnh gốc, chưa số hóa. Tôi không dám hứa nhưng tôi sẽ cố.
====

Trao đổi khác:

Sau đấy tôi gửi cho ông ta tấm ảnh mới chụp của bác ov10, và hỏi ông ta về chuyện nòng pháo và hỏi sao chỗ ấy lại vắng tanh vắng ngắt, sao không có bộ đội canh xe. Ông ta trả lời thế này: ''Đúng là chỗ ấy đấy, chỉ cách chừng vài chục mét thôi, phong cảnh giống hệt.
Chuyện nòng pháo thì tôi chịu. Trên ảnh của tôi có ba cái xe tăng, nhưng cũng có thể còn những cái khác nữa bên cạnh chăng ? Tôi không nhớ nữa.
Mấy cái xe này nằm ngay giữa đường, bọn tôi thì đi taxi tới, chẳng ai nói gì chúng tôi cả. Tôi nhớ có một lũ trẻ ở gần đấy. Chỗ đó nguy hiểm, vì đạn trong xe có thể nổ. Bọn tôi bảo lũ trẻ đừng có tới gần, nhưng chúng chỉ cười thôi! Bọn tôi đi thêm vài trăm mét nữa thì quân Bắc Việt bắt chúng tôi quay lại.
Hôm 30/04, tôi cùng bộ đội đi theo những chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập, xông lên bãi cỏ. Khoảnh khắc lịch sử đấy! Chỉ vài phút sau ông Minh đi ra, thế là tôi chụp được!

===

[7.9] Trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975



Cách đây 41 năm, sáng sớm ngày 30/4/1975, Trung đoàn 273 xe tăng của Quân đoàn 3 đã cùng với Sư đoàn 10 tấn công vào mục tiêu là Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa. Khi đến khu vực vòng xoay Lăng cha Cả (Ngày nay là khu vực giao giữa đường Cộng Hòa - Lê Văn Sỹ - Hoàng Văn Thụ - Bùi Thị Xuân) đã gặp phải sự chống cự quyết liệt của phía Việt Nam cộng hòa.

Hình ảnh sau trận chiến dữ dội của đơn vị xe tăng thuộc Trung đoàn 273 với phía VNCH đã được ông Jacques Pavlovsky (Nhiếp ảnh gia người Pháp) ghi lại, cho thấy mức độ ác liệt của trận chiến tại những giờ phút cận kề chiến thắng
(Những ảnh này lấy từ nguồn ảnh của bác Ngao5 post)









Không ảnh khu vực



Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

[2.28.1] Vài nét sơ lược về Trung đoàn 2 – Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5, thông tin ghi nhận của phía Mỹ năm 1970

2016032781041.28 – Thông tin đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Xin giới thiệu một số thông tin sơ lược về Trung đoàn 2 – Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5, do phía Mỹ ghi nhận năm 1970

Trung đoàn 2 được thành lập tháng 3/1962 ở khu vực gần sông Xa Lo địa phận tỉnh Quảng Ngãi – Kontum, gồm có các tiểu đoàn 20, 90, 300.

Từ năm 1962 đến 1964, trung đoàn trú quân ở khu vực rừng núi thuộc huyện SƠn Hà – tỉnh Quảng Ngãi.

Đầu năm 1965, Trung đoàn hoạt động ở các tỉnh Quảng Ngãi – Phú Yên – Bình Định, với nhiệm vụ chính là tấn công các lực lượng tiếp viện khi giao chiến.

Tháng 9/1965, Trung đoàn tham gia các cuộc tấn công ở huyện Phù Mỹ – tỉnh Bình Định.

Từ tháng 8 đến tháng 11/1966, Trung đoàn 2 hoạt động ở khu vực Phù Cát – Vĩnh Thạnh và Hoài Ân – tỉnh Bình Định.

Trong tháng 12/1966, Trung đoàn quay về tỉnh Quảng Ngãi và ở đây cho đến tận tháng 12/1967, sau đó quay lại Bình Định. Thời gian này, Trung đoàn chuẩn bị cho chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân.

Tháng 6/1968, Trung đoàn 2 rời Bình Định, và quay trở lại Quảng Ngãi, sau đó phía Mỹ không ghi nhận được thông tin về Trung đoàn cho đến tháng 10/1968. Tháng 9/1969, phía Mỹ ghi nhận thông tin huyện Hòai Nhơn được lệnh phối hợp với Trung đoàn 2 sẽ di chuyển từ phía Nam Quảng Ngãi vào hoạt động trên địa bàn huyện. Các thông tin ghi nhận tiếp theo vào tháng 10/1969 cho thấy một số đơn vị của Trung đoàn có nhiệm vụ thu mua lúa gạo. Một số thông tin khác cũng ghi nhận sự xuất hiện của các đơn vị thuộc Trung đoàn ở Tam Quan, Hoài Nhơn.

Tháng 11, phía Mỹ ghi nhận thông tin Trung đoàn di chuyển về phía Nam từ huyện Tam Quan và Hoài Nhơn, về huyện Phù Mỹ, trong trạng thái thiếu thốn lương thực và nhân lực, để nghỉ ngơi và huấn luyện chính trị.

Từ tháng 12/1969 đến tháng 4/1970, Trung đoàn 2 không giao chiến, mà nghỉ ngơi và huấn luyện ở khu vực Hoài Ân, Phù Mỹ.

[3.33.6] Bản tự nhận xét của bác Bùi Xuân, Trung đội phó, đơn vị thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, năm 1967

2016021719032.21 – Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bản tự nhận xét cá nhân của bác Bùi Xuân là Trung đội phó, không có thông tin về quê quán, đề ngày 30/4/1967, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967