Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

[5.25] Thông tin phía Mỹ ghi nhận về Trung đoàn 29 - Quân khu 4 tháng 8/1967

2015061636036

Rongxanh có nhận được 1 comment về Liệt sỹ hy sinh ngày 21/8/1967 thuộc Trung đoàn 29 quân khu 4, như sau:

http://kyvatkhangchien.vnweblogs.com/post/36742/461957#2139353

Viết bởi Hoàng Thị Thân thông tin phiên hiệu đơn vị [ Trả lời ] 19/05/2015, 10:44 các bác CCB ạ cho tôi hỏi . Năm 1967 tại khe sanh trung đoàn 29 thuộc đơn vị nào . Trận đánh ngày 21 tháng 8 năm 1967 tại khe sanh , có bác nào biết không ? mà sao lâu nay tôi tìm mãi trên mạng mà không thấy ai nhắc gì tới trung đoàn 29 cả . Vì bố tôi là Liệt Sỹ : Hoàng Trung Bôn . Sinh ngày 11 tháng 12 năm 1930 , nhập ngũ : 5 tháng 5 năm 1950 . Hy sinh ngày 21 tháng 8 năm 1967 .Tại mặt trận phía nam . An táng tại mặt trận phía nam theo giấy báo tử đề : Trung đoàn 29 . Thủ trưởng ký giấy BT : Nguyễn Văn Cảnh . Vậy ai biết thông tin gì về phần mộ của bố tôi . hoặc thông tin liên quan đến trung đoàn 29 cho tôi biết với . Xin cảm ơn mọi người trước .

Qua tìm hiểu, phía Mỹ có ghi nhận thông tin về 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 29 hay là Trung đoàn 18C/ Sư đoàn 325C - Quân khu Trị Thiên, hoạt động vào ngày 21/8/1967 tại khu vực gần Khe Sanh. Do bác Hoàng Thị Thân không để lại địa chỉ liên lạc (email), nên nếu bác có đọc được bài này, bác hãy gửi ảnh chụp Giấy báo tử/ hoặc ảnh chụp trích lục thông tin về Liệt sỹ vào mail Kyvatkhangchien@gmail.com, Rongxanh sẽ gửi lại gia đình thông tin về tiểu đoàn đó, nếu đúng là đơn vị của Liệt sỹ.

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015

[5.24] Thông tin phía Mỹ ghi nhận về Trung đoàn 29- Quân khu 4 năm 1967

2015061535034
Rongxanh có nhận được 1 comment về Liệt sỹ hy sinh 24/5/1967 thuộc Trung đoàn 29 quân khu 4.

http://kyvatkhangchien.vnweblogs.com/post/36742/464355#2141948
Viết bởi trương thanh huynh,quảng sơn,quảng bình TÌM MỘ LIỆT SỶ [ Trả lời ]
TÌM MỘ LIỆT SỶ.Trương quang giỏng
quê quán.thọ hạ,quảng sơn,quảng trạch ,quảng bình
sinh.7/1942
nhập ngủ.4/1963
hy sinh.8h ngày 24/5/1967,tại mặt trận phía nam
Đơn vị.trung đoàn 29,khu 4,giấy báo tử do ông Thân hoạt ký ngày 31/8/1967,ai biết phần mộ nằm ở đâu xin báo.trương thanh huỹnh.đt,01257558559


Qua tìm hiểu, phía Mỹ có ghi nhận về Trung đoàn 29 mang mật danh là Kien Giang (Kiên Giang hoặc Kiến Giang), thuộc Sư đoàn 325C. Trên thực tế, đây là Trung đoàn 18C thuộc Sư đoàn 325C, thời điểm đầu tháng 5/1967 được phía Mỹ ghi nhận hoạt động ở huyện Gio Linh - tỉnh Quảng Trị (phía Tây Cồn Tiên).

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

[2.20] Vài nét tóm tắt về lịch sử Trung đoàn 320

20150614 - Vài nét tóm tắt về lịch sử Trung đoàn 320
- Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn bộ binh 320. Trung đoàn trưởng đầu tiên là thiếu tá Đồng Sĩ Phiên, nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36 – Sư đoàn 308. Chính ủy là Trung tá Bùi Dư, quê Quảng Ngãi. Bộ Tổng tham mưu giao cho các Sư đoàn 308, 304, Lữ đoàn 350, mỗi đơn vị chọn lựa cán bộ và chiến sỹ trong sư đoàn, lữ đoàn tổ chức thành 1 tiểu đoàn bộ binh chuyển giao cho Trung đoàn 320.
   + Tiểu đoàn 334, do Sư đoàn 308 thành lập. Tiểu đoàn được mang truyền thống Đại đoàn Quân tiên phong 308.
   + Tiểu đoàn 966, do Sư đoàn 304 thành lập. Tiểu đoàn được lựa chọn cán bộ và chiến sỹ từ Trung đoàn 9 Quang Trung, và Trung đoàn 66, nên tên của Tiểu đoàn này được ghép từ 2 trung đoàn này, gọi là tiểu đoàn 966. Tiểu đoàn 966 được mang truyền thống của Đại đoàn 304 anh hùng. Sau này khi Trung đoàn 320 hành quân vào Nam bộ chiến đấu, thì tiểu đoàn 966 ở lại Tây Nguyên, tiếp tục chiến đấu ở vùng Pleiku. Sau này tiểu đoàn sát nhập với Tiểu đoàn 31 và lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 631.
      + Tiểu đoàn 635 do Lữ đoàn 350 thành lập, lấy tiểu đoàn 4 của Lữ đoàn làm nòng cốt. Tiểu đoàn 635 được mang truyền thống vinh quang của Đại đoàn 350.
     + Các đơn vị trực thuộc của Trung đoàn 320 gồm các đại đội: Trinh sát, công binh, thông tin, súng cối, DKZ được điều động từ các đơn vị của Bộ quốc phòng. Khi trung đoàn vào đến Tây Nguyên thì được bổ sung thêm 1 đại đội súng máy cao xạ 12.7mm từ Tiểu đoàn 33 súng máy cao xạ.

- Sau 4 tháng học tập và rèn luyện ở khu vực doanh trại của Lữ đoàn 338 ở Xuân Mai, Trung đoàn được chia thành 3 khối hành quân vào Tây Nguyên. Khối thứ nhất gồm có các cơ quan Trung đoàn, các đại đội trực thuộc và Tiểu đoàn 334. Khối thứ 2 là Tiểu đoàn 635, khối thứ 3 là Tiểu đoàn 966. Mỗi khối hành quân cách nhau 3 ngày. Khối thứ nhất rời Xuân Mai vào ngày 16/8/1964.

- Sau gần 3 tháng hành quân, đến tháng 11/1964 toàn Trung đoàn đã đến huyện 40 Daklây tỉnh Kontum. Khi thành lập Sư đoàn 1, thì Trung đoàn 320 được đứng chân trong đội hình Sư đoàn 1 – Mặt trận B3 Tây Nguyên.

- Sau một thời gian hoạt động ở khu vực bắc Tây Nguyên, tiếp tục cho đợt 2 tổng công kích và tổng khởi nghĩa, trong đợt 2 Sư đoàn 1 hành quân vào Đắc Lắc. Trung đoàn 320 vào triển khai chuẩn bị cho vận động tiến công ở khu vực Đức Lập. Lúc này Tiểu đoàn 6 (Tiểu đoàn 966) đã tách ra khỏi đội hình Trung đoàn và về hoạt động ở vùng Tây Gia Lai. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 33 về Trung đoàn 320 thay cho tiểu đoàn 6. Trong khi Trung đoàn 320 đang triển khai trận địa phục kích ở Đức Lập, thì tháng 5/1968, Sư đoàn 1 nhận được mệnh lệnh điều động Trung đoàn vào chiến trường miền Đông Nam bộ.

- Sau một thời gian hoạt động ở chiến trường miền Đông Nam bộ, đầu năm 1969, do tình hình khó khăn của các đơn vị trên địa bàn tỉnh Long An, Bộ tư lệnh miền đã quyết định điều Trung đoàn 320 về hoạt động tại địa bàn tỉnh Long An. Từ khu vực Katum (Tây Ninh), Trung đoàn hành quân đến căn cứ Ba Thu của Phân khu 2 vào dịp tết nguyên đán, sau đó hành quân tiếp về Long An.

- Theo kế hoạch, Trung đoàn bộ, các đại đội trực thuộc (đặc công, trinh sát, quân y, thông tin, vận tải...) và tiểu đoàn 6 (Tiểu đoàn 966) đứng chân và hoạt động ở huyện Châu Thành. Tiểu đoàn 5 (tiểu đoàn 635) đứng chân và hoạt động ở huyện Tân Trụ. Tiểu đoàn 4 (Tiểu đoàn 334) đứng chân và hoạt động ở khu vực huyện Cần Đước. Sau hơn 1 năm hoạt động ở địa bàn tỉnh Long An, toàn Trung đoàn có 1027 người hy sinh, trong đó có 5 cán bộ Trung đoàn, 593 người bị thương (Sau này tìm sơ bộ thì số cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 320 hy sinh trên địa bàn tỉnh Long An là khoảng 1700 người).

- Đầu năm 1970, Trung đoàn 320 nhận được lệnh để lại các Tiểu đoàn 4 ở Cần Đước, tiểu đoàn 5 ở lại Tân TRụ, tiểu đoàn 6 ở lại Châu Thành tiếp tục hoạt động. Các lực lượng khác của Trung đoàn rút về Ba thu. Các tiểu đoàn 4-5-6 ở lại hoạt động trong hoàn cảnh điều kiện cực kỳ khó khăn, có những lúc các tiểu đoàn mất liên lạc với ban chỉ huy Trung đoàn và Bộ tư lệnh Phân khu 3 nên không còn nguồn cungc cấp hậu cần. Đến cuối năm 1970, Trung đoàn bàn giao tiểu đoàn 4 – 5 – 6 cho tỉnh Long An (Mỗi tiểu đoàn thực tế quân số chỉ còn hơn 90 người).

- Ngày 4/5/1970 lực lượng Mỹ và VNCH tổ chức trận càn đánh trúng vào khu vực Trung đoàn 320 vừa tạm dừng chân, đã làm Trung đoàn bị thiệt hại nặng, trong đó có cả Ban chỉ huy Trung đoàn.

- Sau khi bàn giao tiểu đoàn 4 – 5 – 6 cho tỉnh Long An, khi về căn cứ, Trung đoàn 320 được Bộ Tư lệnh Miền bổ sung cho 2 tiểu đoàn của C30 , đại đội huấn luyện và số cán bộ chiến sỹ khác dồn lại tổ chức thành 1 tiểu đoàn. Từ tháng 9/1971 đến tháng 12/1971, Trung đoàn tập trung củng cố về tổ chức, huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Trung đoàn đã được biên chế đủ 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc.

- Tháng 2/1972, Trung đoàn 320 chính thức nhận nhiệm vụ về Quân khu 8 chuẩn bị bước vào hoạt động chiến dịch trên chiến trường Đồng Tháp Mười. Trung đoàn có tham gia vào các đợt hoạt động của Quân khu và tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

- Tháng 7/1977, theo mệnh lệnh của Quân khu, Trung đoàn chia làm 2, một nửa ở lại Sư đoàn 8 làm nòng cốt xây dựng Trung đoàn 2, Sư đoàn 8. Một nửa chuyển về tỉnh Đồng Tháp xây dựng Trung đoàn 320 làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới (gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 3, tổng quân số khoảng 600 người).

- Sau một thời gian hoạt động chiến đấu bảo vệ biên giới, ngày 6/1979, Trung đoàn 320 được giao nhiệm vụ phối hợp với cánh trái Sư đoàn 9 Quân đoàn 4 đánh chiếm huyện lỵ Piemcho, sau đó phát triển về bến phà Niek Lương, hội quân với Sư đoàn 9 và chốt giữ bến phà để Sư đoàn 9 tiến về thủ đô Phnompenh.

- Tại Campuchia, Trung đoàn đã đứng chân hoạt động chính trên địa bàn tỉnh Preyveng. Năm 1982, Quân khu 7 quyết định giải thể Trung đoàn 320, chia các cán bộ Tiểu đoàn về địa bàn huyện – xã hoạt động. Quân khu thành lập Tiểu đoàn 320, và đưa đi hoạt động ở tỉnh Cong pong Chàm.

- Tháng 6/1984, Quân khu 7 quyết định thành lập lại Trung đoàn 320, gồm các tiểu đoàn 502 – 504 – 506 (Tiểu đoàn 320 đổi tên thành tiểu đoàn 504), địa bàn hoạt động ở tỉnh Cong Pong Thom.

- Những năm tiếp sau, Trung đoàn thay Trung đoàn Gia Định hoạt động ở khu vực từ Bắc tỉnh Cong pong Chàm kéo dài đến sát Siem Riệp và Preah Vihia.
- Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, về nước, Trung đoàn nhận mệnh lệnh giải thể. Dù Trung đoàn 320 không còn, nhưng tỉnh Đồng Tháp vẫn khôi phục lại tên Trung đoàn 320, các tên song trùng của Trung đoàn 891 quân dự bị.

[2.19] Diễn biến về cơ cấu tổ chức một số đơn vị thuộc Mặt trận Tây Nguyên B3 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

20150607


1.            Tháng 11/1964, thành lập Viện quân y 1 trên cơ sở khung tiểu đoàn quân y của Sư đoàn bộ binh 325 mới vào chiến trường Tây Nguyên.

2.            Ngày 20/12/1965, thành lập Sư đoàn bộ binh 1 chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên B3. Trong biên chế Sư đoàn có 3 trung đoàn bộ binh là trung đoàn 320, trung đoàn 33 [Là trung đoàn 101B của Sư đoàn 325B], trung đoàn 66 và một số phân đội hỏa lực, bảo đảm. Sư đoàn trưởng: Đồng chí Nguyễn Hữu An, Chính ủy: Đồng chí Hoàng Thế Thiện.

3.            Ngày 20/12/1965, thành lập Sư đoàn bộ binh 6 chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế có 2 Trung đoàn là Trung đoàn 24A và Trung đoàn 88, tiểu đoàn pháo binh 200, 1 tiểu đoàn súng máy cao xạ, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 đại đội công binh. Do các Trung đoàn 24 và 88 đang trên đường hành quân vào chiến trường nên Sư đoàn 6 mới hình thành bộ tư lệnh, cơ quan sư đoàn và 1 số đơn vị trực thuộc.

4.            Tổng Cục Hậu cần quyết định thành lập Bệnh viện [Quân y viện] 211 có từ 400 đến 500 giường bệnh, tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên. Đây là bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối để thu nhận thương bệnh binh ở Tây Nguyên, Hạ Lào và bộ phận phía Nam của Đoàn 559 Trường Sơn. Chỉ huy bệnh viện có bác sỹ Võ Văn Vinh – Cục phó Cục Quân y làm viện trưởng. Đội ngũ cán bộ của bệnh viện được chọn trong các chuyên viên của 2 bệnh viện tuyến cuối của quân đội là Viện quân y 108 và Viện quân y 103. [Số 211 trong tên bệnh viện là phép cộng của 108 và 103, là số hiệu 2 bệnh viện lớn của Quân đội, có ý nghĩa là Viện 211 từ 2 bộ phận của 2 quân y viện lớn của quân đội lập nên – Rx chú thích thêm]
5.            Đầu tháng 4/1966, Sư đoàn bộ binh 325B được tăng cường vào đến chiến trường Tây Nguyên. Đến Tây Nguyên, Sư đoàn được mang phiên hiệu Nông trường 10 –NT10 tức Sư đoàn 10.

6.            Tháng 9/1966, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên B3 quyết định giải thể Sư đoàn bộ binh 6 và Sư đoàn bộ binh 10. Cán bộ 2 Sư đoàn này tăng cường cho cơ quan Mặt trận. Nguyên nhân giải thể là do việc đảm bảo hậu cần cho các đơn vị chủ lực lớn có nhiều khó khăn, điều kiện tập trung đánh lớn và thiết bị chiến trường còn nhiều hạn chế.

7.            Tháng 9/1966, thành lập Tiểu đoàn 101 độc lập của Mặt trận trên cơ sở chọn những đồng chí quê ở Việt Bắc, Tây Bắc trong Trung đoàn 101B.

8.            Giữa tháng 4/1968, Sư đoàn 325C vào đến chiến trường Tây Nguyên. Vào đến nơi Sư đoàn được gọi là Sư đoàn 6, gồm các trung đoàn bộ binh 95C và 101D.

9.            Tháng 5/1968, các Trung đoàn bộ binh 320, 33 và 174 lần lượt rời Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ theo mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh.

10.         Tháng 10/1968, Sư đoàn bộ binh 6 (Sư đoàn 325C) gồm các trung đoàn bộ binh 95C và 101D và các phân đội hỏa lực đảm bảo được Bộ Tổng tư lệnh điều vào miền Đông Nam bộ.

11.         Cuối năm 1968, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên tổ chức Lữ đoàn 66 gồm Trung đoàn bộ binh 66, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo cối. Nhưng sau một thời gian ngắn lại giải thể.