Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

[5.27] Danh tính một số Liệt sỹ hy sinh trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, do quân Úc xác định, đầu năm 1970

2015122972047

Đầu năm 1970, một số cán bộ, chiến sỹ Quân Giải phóng đã được quân Úc xác định tên – đơn vị thông qua giấy tờ thu được từ một số trận phục kích/ giao chiến với phía Quân Giải phóng, tóm tắt như sau:
[Thông tin có cả tọa độ/địa điểm nơi thu giữ giấy tờ, Rongxanh đưa trước thông tin về tên cán bộ/ chiến sỹ Quân Giải phóng]

1.            Quân Úc đã thu được giấy tờ từ thi thể 1 sỹ quan Quân Giải phóng, được xác định là TRAN NHUAN [Trần Nhuận?] – Phó Chính ủy Trung đoàn 74 pháo binh Quân Giải phóng miền Nam VN. Cùng khu vực, quân Úc cũng thu được giấy tờ từ thi thể một sỹ quan Quân Giải phóng khác, được xác định là PHAM VAN DONG – Cán bộ Ban tác chiến – Trung đoàn 74 pháo binh Quân Giải phóng [17]
2.            Giấy tờ thu được từ thi thể 3 cán bộ Quân Giải phóng, được xác định là: Dao Ngoc THU – Can bộ Ban 2 – Phòng tác chiến/ Phân khu 4; Nguyen Van Du – Cán bộ Phòng Hậu cần Phân khu 4; Le Van Phuoc – Ban chỉ huy Phân khu 4 [28]
3.            Giấy tờ thu được từ thi thể cán bộ QGP, được xác định là Nguyen Van Chien [Nguyễn Văn Chiến?] thuộc đơn vị Ban bảo vệ - Tỉnh đội Ba Lòng [39]
4.            Giấy tờ thu được từ thi thể cán bộ QGP, được xác định là Pham Van Canhthuộc đơn vị Ban quân báo - Tỉnh đội Ba Lòng [46]
5.            Giấy tờ thu được từ thi thể 10 cán bộ chiến sỹ QGP sau trận phục kích, một số cán bộ, chiến sỹ được xác định là:
- Ho Thanh Phong – Chỉ huy đại đội 1 Tiểu đoàn 445 tỉnh đội Ba Lòng [46]
- Le Minh Hoang – Có thể là chiến sỹ bảo vệ huyện đội Long Điền
- Le Van Thien – Trường tiểu học Long Điền
- Tran Van Nhan – Tiểu đội trưởng – Ban Hậu cần tỉnh đội
- Duong Quang Nghia – Huyện ủy viên Long Đât, Ban Tuyên huấn huyện ủy

[Chú thích thêm về Trung đoàn 74 pháo binh]

Phiên hiệu Trung đoàn 74 pháo binh Rx chưa tìm thấy từ phía Việt Nam, tuy nhiên qua trao đổi có 1 bạn trên facebook [Sơn Hà] cho rằng đây là có thể là phiên hiệu khác của Trung đoàn 724 pháo binh/ Đoàn 69 pháo binh Miền, căn cứ vào:Thông tin Liệt sỹ Trần Văn Đáo, Trung đoàn trưởng trung đoàn 724/ Trung đoàn 84A DKB hy sinh trên đường vào nam gần trạm T10
http://chinhsachquandoi.gov.vn/LietSi/118460

Họ và tên: Trần Văn Đáo
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh: 1925
Nguyên quán: Tân Mỹ, Mỹ Lộc, Nam Hà
Trú quán: Tân Mỹ, Mỹ Lộc, Nam Hà
Nhập ngũ: 2/1946
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh: E74 Đoàn 75
Cấp bậc:
Chức vụ: E trưởng
Ngày hi sinh: 07/8/1966
Trường hợp hi sinh: Bị oanh tạc
Nơi hi sinh: T10
Nơi an táng ban đầu: ,
Toạ độ:
Vị trí:
Nơi an táng hiện nay:
Vị trí mộ:
Thân nhân khác: Đỗ Viết Rong
Địa chỉ: Cùng quê

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

[2.23] Sơ lược lịch sử Trung đoàn 29 [Trung đoàn 18C - Sư đoàn 325C], tổng hợp thông tin của phía Mỹ

2015122891049

1.            Năm 1959, tiểu đoàn 929 được thành lập tại tỉnh Quảng Bình, sau đó sang chiến đấu tại chiến trường Lào. Tháng 7/1965, tiểu đoàn quay trở lại Quảng Bình. Tiểu đoàn được bổ sung thêm quân số, cán bộ để lập nên Trung đoàn bộ binh trực thuộc Sư đoàn 325C, với phiên hiệu là Trung đoàn 29. Trung đoàn 29 có một số đơn vị trợ chiến và có 3 tiểu đoàn bộ binh mang phiên hiệu là 7, 8, 9. Mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội trợ chiến. Sau khi thành lập, Trung đoàn 29 lại quay sang Lào chiến đấu, và quay trở về Việt Nam vào tháng 6/1966, và nhận được lệnh di chuyển đến Hương Khê – Quảng Bình, để huấn luyện chính trị và quân sự cũng như bổ sung quân số.
2.            Tháng 8/1966, Trung đoàn 29 bắt đầu 8 tháng huấn luyện, bao gồm huấn luyện chính trị, chiến thuật và các huấn luyện quân sự cơ bản. Ngày 12/3/1967, Trung đoàn bắt đầu lên đường chi viện vào Nam từ tỉnh Quảng Bình. Trung đoàn vượt qua sông Bến Hải khoảng ngày 22/4/1967. Khoảng ngày 23/4, Trung đoàn bị B52 ném bom, làm 2 người chết.
3.            Sau khi đến miền Nam (Quảng Trị) tháng 4/1967, Trung đoàn 29 có nhiệm vụ tăng cường cho các lực lượng Bắc Việt trong khu vực biên giới [DMZ – Khu phi quân sự] 2 miền chống lại các lực lượng Mỹ và đồng minh, tấn công các căn cứ tại Cam Lộ - Cồn Thiên – Gio Linh. Trung đoàn 29 tiếp tục họat động ở đông bắc Quảng Trị cho đến tận tháng 6/1967, trong khi tiểu đoàn 8 di chuyển đến Tây Quảng Trị, còn tiểu đoàn 7 và 9 vượt sông Bến Hải về bờ bắc để củng cố.
4.            Trong khoảng giữa tháng 8 và tháng 10/1967, tiểu đoàn 7 và 9 quay trở lịa miền Nam VN hoạt động. Khoảng thời gian này, có thể các đơn vị này chỉ làm nhiệm vụ vận tải hậu cần hỗ trợ các đơn vị khác hoạt động trong khu vực.
5.            Mùa thu năm 1967, Quân khu Trị Thiên – Huế có sự thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức.
6.            Sau khi trở lại Nam Việt Nam, tiểu đoàn 7 và 9 nhập với tiểu đoàn 8 đang hoạt động ở khu vực Khe Sanh, trở thành Trung đoàn đủ, hoạt động dưới sự chỉ huy của Quân khu Trị Thiên. Trung đoàn được đổi tên thành Đoàn 8 và trực thuộc Quân khu Trị Thiên, tuy nhiên có thể tin rằng trung đoàn vẫn còn hoạt động dưới sự chỉ huy của Sư đoàn 325C tại khu vực Khe Sanh, cho đến khi tiểu đoàn 7 và 9 được lệnh đến Huế để tăng cường cho các đơn vị Bắc Việt trong đợt tấn công Tết Mậu Thân 1968.
7.            Bộ phận của Trung đoàn 29 được ghi nhận là có mặt tại Khe Sanh vào tháng 6/1967. Cho đến tháng 1/1968, vẫn còn dấu hiệu hiện diện của tiểu đoàn 7 tại khu vực Khe Sanh.
8.            Ngày 6/2/1968, tiểu đoàn 7 và 9 của Trung đoàn 29 nhận được lệnh di chuyển đến thành phố Huế, trong khi tiểu đoàn 8 vẫn ở lại khu vực Khe Sanh. Ngày 21 và 22/2/1968, phát hiện sự có mặt của tiểu đoàn 9 và bộ phận của Trung đoàn 6 Bắc Việt ở ngoại vi thành phố Huế. Khoảng 22/2/1968 tiểu đoàn di chuyển về Tây Nam thành Huế, và ở lại đây đến ngày 24/2/1968.
9.            Nhiệm vụ của tiểu đoàn 9 khi ở Huế là yểm trợ để các đơn vị khác rút quân ra khỏi thành phố Huế.
10.         Trong khi đó không có dấu hiệu giao chiến với tiểu đoàn 7 trong đợt tấn công Mậu Thân 1968 tại Huế, có thể tiểu đoàn này thực hiện việc yểm trợ hậu cần và bảo vệ tuyến đường cho các đơn vị Bắc Việt ra và vào thành phố Huế.
11.         Sau chiến dịch Mậu Thân 68 tại Huế, tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 29 di chuyển về phía Tây Huế trong tình trạng thiếu lương thực và bị tổn thất nặng. Thời gian này thì tiểu đoàn 8 vẫn hoạt động ở khu vực Khe Sanh, như là đơn vị vận tải. Nhiệm vụ của tiểu đoàn 7 và 9 vào tháng 4 và 5/1968 ở Tây Huế là bảo vệ tuyến đường 547 (Chạy dọc thung lũng A Lưới), là tuyến đường hậu cần chính của phía Bắc Việt. Có thể tin được rằng tiểu đoàn 7 và 9 tiếp tục hoạt động ở khu vực Tây Huế [Thung lũng A Shau – A Lưới] và tiểu đoàn 8 hoạt động ở khu vực Khe Sanh, cho đến cuối tháng 9/1968.
12.         Do tổn thất nặng và  thiếu lương thực và y tế, Trung đoàn 29 rút về phía Bắc giới tuyến (DMZ) vào tháng 9/1968 để củng cố. Khi ở miền Bắc, trung đoàn nhận được tân binh từ tiểu đoàn 98(?) tỉnh đội Nghệ An, từ 1 trung đoàn của sư đoàn 304 .
13.         Trung đoàn 29 lại quay lại miền Nam VN vào tháng 2/1969, tại chiến trường Trị Thiên. Giữa tháng 4/1969, trung đoàn di chuyển đến Bắc thung lũng A shau, thay thế cho trung đoàn 9, và có thể đổi phiên hiệu, tham gia tấn công vào Dong Ap Bia (Humbeger hill)

Trung đoàn 29 được biên chế vào Sư đoàn 324B, với phiên hiệu là Trung đoàn 8

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

[2.22] Vài nét sơ lược về Bệnh viện K76A – thuộc Đoàn Hậu cần 84 – Quân khu 7, năm 1969

2015122770044

1.            Bệnh viện K76A – QK7 được hình thành từ lâu (Tin tình báo cho biết thành lập từ năm 1965), có quy mô nhỏ hơn Bệnh viện K76B và K76C. Bên cạnh nhiệm vụ cứu chữa thương bệnh binh, Bệnh viện K76A còn là nơi cung cấp đồ dùng y tế cho các đơn vị điều trị khác, như Bệnh viện K10 thuộc Phân khu 4 [Quân khu Sài gòn – Gia ĐỊnh] và C24[Đại đội 24 quân y]/ Trung đoàn 274/ Sư đoàn 5 Quân Giải phóng.
2.            Tổ chức của Bệnh viện K76A gồm có: 110 người
-              Ban Chỉ huy: 3 Chỉ huy bệnh viện (1 trưởng và 2 phó), Chính trị viên bệnh viện và Chính trị viên phó, tất cả là 5 người.  Bộ phận quản trị (Hậu cần, quản trị, tài chính…)
-              Bộ phận 1: Là khu vực cho bệnh nhân ngoại, cứu chữa thương binh nhẹ và bị ốm, có 18 bác sỹ và nhân viên.
-              Bộ phận 3: Là khu vực điều trị, phẫu thuật. Có 21 bác sỹ và nhân viên
-              Đơn vị bảo vệ: Có 15 người
-              Bộ phận dược phẩm: Có 3 người
-              Bộ phận nha khoa: Có 3 người
-              Bộ phận vận tải: Vận chuyển thương bệnh binh, bao gồm cả cứu chữa trên đường vận chuyển, có 22 người.
3.            Bệnh viện K76A được chia thành 3 khu vực là Khu vực 1 (Cứu chữa bệnh nhân ngoại và thương binh nhẹ), Khu vực 2 (Khu hành chính của bệnh viện và điều trị bệnh nhân ốm nhẹ) và Khu vực 3 (Chuyên để cứu chữa bệnh nhân nội/ thương binh nặng hoặc thân nhân cán bộ chiến sỹ QGP ở quanh vùng). Mỗi khu vực cách nhau đến một vài km. Bệnh viện nằm trong khu vực rừng rậm, có con suối chảy qua khu vực 3. 
4.            Bệnh viện K76A phục vụ cho địa bàn các tỉnh Phước Tuy, Tây tỉnh Bình Tuy, Nam tỉnh Long Khánh và có thể cả phía Nam Biên Hòa. Khu vực như vậy có khoảng 6500 người, bao gồm 5 huyện của tỉnh Ba Lòng và tỉnh đội Ba Lòng. Ngoài ra còn có các đơn vị chủ lực khác, gồm: Trung đoàn 574 – Sư đoàn 5, Tiểu đoàn 440 bộ đội địa phương, Tiểu đoàn 445 bộ đội địa phương, Ban chỉ huy Quân khu 7, các đơn vị du kích Phước Tuy là C25, C41, C70.
5.            Con số bệnh nhân cao nhất được điều trị tại Bệnh viện K76A trong năm 1969 là 300 người. Tuy nhiên bệnh viện K76A có quy mô khoảng 200 giường bệnh.

[2.21.2] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 3)

Link phần trước:

[2.21.1] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 2)

[2.21] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 1)


 9.            Năm 1968
-              Bổ sung cho các chiến trường những đơn vị:
               + Ngày 7/1/1968 Đại đội chỉ huy pháo binh bổ sung cho Đoàn 69 pháo 
                   binh Miền (B2),
               + 10/2/1968 tiểu đoàn 3 cho Trung đoàn 164 pháo binh Quân khu 4 ở
                   Mặt trận B5,
               + 6/3/1968 tiểu đoàn 1/ Trung đoàn 16 pháo binh bổ sung cho Trung
                  đoàn 40 pháo binh Mặt trận B3 Tây Nguyên
               + 29/3/1968 Trung đoàn 16B pháo binh bổ sung cho mặt trận B2, tới
                  Atopơ (Lào) thì được lệnh dừng lại
               + 26/2/1968 tiểu đoàn 38 bổ sung cho mặt trận B4
-              Ngày 29/3/1968 thành lập Trung đoàn pháo binh 675 của Mặt trận B4 Trị - Thiên, có 6 tiểu đoàn pháo binh. Sau này đổi tên thành Trung đoàn pháo binh 368.
-              Tháng 3/1968, tiểu đoàn pháo binh 214/Trung đoàn pháo binh 154/QK3 bổ sung cho Trung đoàn pháo binh 675A ở chiến trường B4, tháng 4/1968 đến Trung đoàn 675A.
-              Tháng 10/1968 Trung đoàn pháo binh 38 vào mặt trận B5 thay thế cho Trung đoàn 204 pháo binh ra miền Bắc củng cố.
-              Đoàn 69 pháo binh Miền có 3 trung đoàn là 724, 28, 96, 2 tiểu đoàn pháo mặt đất, 2 tiểu đoàn pháo cao xạ, trường sỹ quan H10
-              Quân khu 9 có Trung đoàn pháo binh 6, Các quân khu 6,7,8 mỗi quân khu có 1 tiểu đoàn pháo binh trang bị súng cối và DKZ.
-              Tháng 9/1968, Bộ Tư lệnh Miền giải thể Trung đoàn pháo binh 724/Đoàn 69 pháo binh Miền để đưa 3 tiểu đoàn sang thành các tiểu đoàn độc lập của Trung đoàn 429 đặc công Miền.
-              Mặt trận B1 (Khu 5) có Trung đoàn pháo binh 575 và 577 trang bị DKB.
-              Mặt trận B3 có Trung đoàn pháo binh 40 gồm 8 tiểu đoàn pháo binh: 41, 41, 31, 32, 33, 34, 46 và 47 là SMPK 12.7mm và xe tăng.
-              Mặt trận B4 được bổ sung thêm 2 tiểu đoàn DKB
-              Mặt trận B5 tham gia chiến dịch Khe Sang có 5 trung đoàn pháo binh gồm các trung đoàn: 164, 204, 675A, 45, 84B, và tiểu đoàn pháo BM14 thuộc Trung đoàn 16 pháo binh

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

[2.21.1] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 2)

Link phần trước:

[2.21] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 1)



8.            Năm 1967
-              Trung đoàn pháo binh 208B, có 3 tiểu đoàn, bổ sung cho Chiến trường B2, xuất phát 19/1/1967, đến Đông Nam Bộ tháng 6/1967.  Được Miền đổi tên thành Trung đoàn pháo binh 28 thuộc Đoàn 69 pháo binh Miền.
-              Trung đoàn pháo binh 368B, có 2 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 2 và 3), bổ sung cho mặt trận B1 (Quân khu 5)  ngày 11/3/1967, đến chiến trường 14/5/1967, được bổ sung thêm tiểu đoàn 99 pháo binh, đổi tên thành Trung đoàn pháo binh 575.
-              Trung đoàn pháo binh 204, có 2 tiểu đoàn, bổ sung cho mặt trận B5 ngày 18/4/1967.
-              Trung đoàn pháo binh 68B, có 2 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1 và 3), bổ sung cho Quân khu 5 (B1) vào ngày 9/5/1967, đến chiến trường được tổ chức thêm 1 tiểu đoàn pháo binh nữa và ngày 19/8/1967 đổi tên thành Trung đoàn pháo binh 577.
-              Trung đoàn pháo binh 45, có 3 tiểu đoàn, bổ sung cho mặt trận B5 ngày 14/6/1967, tới chiến trường ngày 4/8/1967 để tham gia chiến dịch Khe Sanh.
-              Tiểu đoàn 2/ Trung đoàn pháo binh 68B bổ sung tiếp vào Quân khu 5 (B1), ngày 20/8/1967 vào đến khu 5 sát nhập vào Trung đoàn pháo binh 577 (E68B).
-              Tiểu đoàn 4/ Trung đoàn pháo binh 68B, bổ sung cho Mặt trận B2 ngày 18/6/1967.
-              Có 5 đại đội súng cối (Do Trung đoàn 368 pháo binh tổ chức) bổ sung cho mặt trận B3 và B1, lên đường vào ngày 18/6/1967 (Đi B3) và ngày 22/6/1967 (đi B1).
-              Tiểu đoàn pháo binh 12/Trung đoàn 208A pháo binh bổ sung cho mặt trận B5, xuất phát 30/5/1967.
-              Trung đoàn 208A pháo binh, có 2 tiểu đoàn, bổ sung cho mặt trận Tây Nguyên ngày 21/10/1967. Vào đến B3 lại tiếp tục đi vào Chiến trường B2. Vào đến B2, Bộ Tư lệnh Miền đổi tên thành Trung đoàn 96 pháo binh thuộc Đoàn 69 pháo binh Miền.
-              Ngày 5/2/1967, Mặt trận B3 thành lập Trung đoàn 40 pháo binh, có 4 tiểu đoàn.
-              Đoàn 69 pháo binh Miền (cấp Sư đoàn) có 3 trung đoàn là Trung đoàn 724, trung đoàn 28, trung đoàn 96 và 2 tiểu đoàn pháo binh.

Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

[2.21] Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (Phần 1)

Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

1.            Năm 1960
-              Sau chiến thắng Tua Hai, tháng 1/1960, Ban Quân sự Miền (R) thành lập Đại đội trợ chiến, lấy phiên hiệu là C315, tổ chức gồm 3 trung đội, trang bị DKZ 57, cối 81mm và súng 12,7mm thu được của địch. Đây là đại đội pháo đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ.

2.            Năm 1961
-              Tiểu đoàn pháo 200 (X200) trang bị 8 khẩu sơn pháo 75mm bổ sung cho chiến trường Tây Nguyên, xây dựng cơ sở ở huyện 40 tỉnh Kontum.
-              Thành lập 3 tiểu đoàn pháo binh mang phiên hiệu 95, 300, 400 trang bị sơn pháo 75mm để chuẩn bị bổ sung cho chiến trường Quân khu 5. Năm 1963 vào đến Khu 5.
-              Tiểu đoàn 1 – Lữ đoàn 368 pháo binh được bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên B3 và Tiểu đoàn 1 pháo binh của Sư đoàn 338 sang Lào.

3.            Năm 1962
-              3 tiểu đoàn pháo binh bổ sung cho mặt trận B2 là tiểu đoàn 17, tiểu đoàn 19, tiểu đoàn 13.
-              Bộ Tư lệnh miền thành lập tiểu đoàn pháo binh 35 (Mật danh là Z35) lấy nòng cốt là Đại đội pháo binh 15 của Miền và Đại đội pháo binh 5 của Trung đoàn bộ binh 2.

4.            Năm 1963
-              Khu 9 thành lập các tiểu đoàn pháo binh mang phiên hiệu: 10, 18, 207, 198, 700 trang bị DKZ57, cối 82mm và 12,7mm
-              Ngày 30/10/1963, Bộ chỉ huy Miền quyết định thành lập Đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên (Cấp Trung đoàn), gọi tắt là U80. Tổ chức gồm có 6 tiểu đoàn pháo binh (Z) là Z35, Z39, Z41, Z37, Z43, Z52; 2 đại đội pháo binh là Đại đội 18 và Đại đội chỉ huy.

5.            Năm 1964
-              Ngày 19/8/1964 Bộ Tư lệnh Miền đổi tên Đoàn pháo binh Miền U80 thành Đoàn 563 pháo binh.
-              Ngày 20/7/1964 ở Khu 9 (miền Tây Nam Bộ) thành lập Đoàn 480 (Trung đoàn 4 pháo binh) gồm các tiểu đoàn 198, 217, 700
-              Bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên 2 tiểu đoàn pháo binh là Tiểu đoàn 32 và Tiểu đoàn 30

6.            Năm 1965
-              Đoàn 563 pháo binh đổi tên thành Đoàn 69 pháo binh Miền, tổ chức tương đương cấp Sư đoàn, có 5 tiểu đoàn pháo binh.
-              Các mặt trận khác tổ chức tiểu đoàn pháo binh, ở Trị Thiên – Quảng Đà – Tây Nguyên (Tiểu đoàn 200)