Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

[3.35] Giấy ra viện và Giấy chứng thương của cán bộ chiến sỹ thuộc Sư đoàn 3 Sao vàng QK5, năm 1967

2016061218028

Các giấy tờ này do lính Mỹ thu được tại Bình Định ngày 11/1/1967, gồm:

1. Sáu (6) Giấy ra viện, thời gian khoảng 17/2/1966 đến 28/6/1966, do bác sỹ Trung Lưu và Chỉ huy Liên đội 600 (Tiểu đoàn 600 quân y – Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5) ký; và do bác sỹ Trần Thị Lý (?), bệnh viện 70 dã chiến/ Sư đoàn 3 Sao Vàng ký, cho các chiến sỹ thuộc Liên gia 8/ Tiểu đoàn 8 – ĐƠn vị 527/ Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng, gồm:

– Đ/c Nguyễn Văn Kỷ, 20 tuổi, Quê quán tại thôn Xuân Hòa, xã Phú Cát, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Đ/c Trương Vĩnh Tương, 20 tuổi, quê tại xã Quốc Toản, huyện Quản (Quảng?) Nguyên, tỉnh Cao Bằng

– Đ/c Nguyễn Bích, 20 tuổi, giao liên, quê xã Yên Hương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ

– Đ/c Trần Hữu Mãnh, 17 tuổi, quê xã Điện Bàn, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

– Đ/c Nguyễn Văn Phó, 20 tuổi, quê tại Thái Bình

2. 03 Giấy chứng thương, đề ngày 19/5/1966, do bác sỹ Nguyễn Bá Nông, Chủ nhiệm quân y đơn vị 527/Trung đoàn 22 Quyết Tâm – Sư đoàn 3 Sao Vàng, cấp cho các quân nhân thuộc Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, bị thương do chống càn hôm 18/5/1966 tại huyện Phù Cát – Bình ĐỊnh, gồm:

– Đ/c Nguyễn Thế KHóa, 28 tuổi, Trung đội trưởng, quê Xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

– Đ/c Nguyễn Văn Chuyền, 25 tuổi, quê xã Đông Xuân, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc

– Đ/c Đinh Trọng Thắng, 20 tuổi, quê xã An Lễ, huyện Phú Đức, tỉnh Thái Bình

3. 03 giấy khám bệnh, ngày 18/4/1966 đến 5/6/1966, do y sỹ Đinh của Bệnh xá K202 và Y503, cấp cho 3 cá nhân thuộc Liên đội 8 – Sông Hồng/ Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, gồm: Đinh Văn Đáng 23 tuổi, Nguyễn Quang Thôi 25 tuổi Trung đội trưởng, Nguyễn Trung Ninh là Chính trị viên Đại đội

4. 03 giấy chứng nhận thương tật, ngày 18/4/1966 và 20/6/1966, ký bởi y sỹ Đinh thuộc Bệnh xá Y503 và K202 và Bác sỹ Nguyễn Phát Tường, Ban Dân y tỉnh Bình Định, cấp cho các cá nhân thuộc Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 22 Quyết Tâm, gồm: Nguyễn Trung Ninh – Chính trị viên Đại đội, Nguyễn Quang Thôi – Trung đội trưởng, Nguyễn Đình Thỏa

Hình ảnh các giấy tờ trên (Không xem được rõ nét):

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

[6.9] Hình ảnh vệ tinh về sự phát triển của một số đảo trong quần đảo Trường Sa, do Việt Nam kiểm soát

20160605

Ảnh vệ tinh chụp một số đảo trong quần đảo Trường Sa, do Việt Nam kiểm soát, cho thấy sự phát triển về diện tích và các công trình trên đảo (Nguồn từ website http://amti.csis.org)

1. Đảo Trường Sa

2. Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay)

3. Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe)

4. Đảo Đá Tây (West reef)

5. Đảo Sơn Ca (Sin Cowe)

6. Đảo Phan Vinh (Pearson Reef)

7. Đảo Trường Sa Đông

8. Đảo Sinh Tồn Đông (Grierson Reef)

9. Đảo Núi Le (Cornwallis south reef)

Phần phía Đông Nam





Phần phía Tây Nam

[6.8] Bản quy hoạch nội thành tp Hà Nội thời kỳ Pháp chiếm đóng, năm 1943

20160605 Bản quy hoạch này Rongxanh thấy trên mạng, giới thiệu với mọi người. Nếu HN thực hiện được theo bản quy hoạch này thì sao nhỉ?





Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

[3.35] Cựu chiến binh Mỹ cần tìm thân nhân Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 66, hy sinh khi đánh trận Cao điểm 875 Dakto để trao trả lại kỷ vật

20160520
Trong nhóm VietnamWarHistoryOrg trên face book, có 1 nick là Stephen Doc Watson‎ (Rongxanh đoán có lẽ là Cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam) muốn trao trả lại một số kỷ vật thu được từ thi thể của 1 sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam thuộc Trung đoàn 66, hy sinh trong trận Cao điểm 875/ Dakto

Nội dung bức thư bằng tiếng Anh:

From the Hill 875, Dak To battlefield, taken from a fallen officer of the NVA 66th regiment. Entrusted to me by Larry McCabe, the warrior who brought it back. (Erik, I've sent two PM's per your request, and Larry has approved of returning it to the family of the Vietnamese officer.)
Rongxanh đang hỏi về thời gian lấy các đồ vật này từ thi thể người lính Bắc Việt.
Ảnh chụp các kỷ vật:


Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

[3.34] Sổ ghi chép của bác Dương Hồng Cử, đơn vị thuộc Đoàn 1506 (Bộ Tư lệnh Công binh), quên quán thôn Đào Xuyên – xã Đa Tốn – huyện Gia Lâm – Hà Nội, năm 1967

2016051520031 – Những kỷ vật thời chiến

Cuốn sổ ghi chép của bác Dương Hồng Cử, do phía Mỹ thu được ngày 12/4/1967, tại huyện Hải Lăng, Quảng Trị (Tại khu vực giáp giới huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên – Huế).
– Phía Mỹ có thông tin bác Cử thuộc Đoàn 1506 (Trường kỹ thuật công binh đóng tại Ba Vì – Hà Tây).
– Bác Cử nhập ngũ ngày 30/1/1966, quân số thuộc Đại đội 11 – Đoàn 1506/ Trường kỹ thuật công binh/ Bộ Tư lệnh công binh Quân đội nhân dân Việt Nam. Đơn vị có số hòm thư 41139 FM.
– Một số thông tin về quá trình vào Nam: Đơn vị này đến Nam Đàn – Nghệ An ngày 11/12/1966, tiếp đó tiến vào Vĩnh Linh. Ngày 11/1/1967, đơn vị đến Lệ Thủy – Quảng Bình. 18/1/1967 vượt sông Bến Hải, đến Co Nhi Phuong – Hải Phong – Hải Lăng – Quảng Trị ngày 14/3/1967, tham gia chống càn ngày 23/3/1967.

Ảnh chụp trang đầu cuốn sổ

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016

[3.33.7] Bản tự nhận xét của bác Đặng Ngọc Đức, thượng sỹ Trung đội trưởng, đơn vị thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, năm 1967

2016021719032.24 – Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bản tự nhận xét cá nhân của bác Đặng Ngọc Đức, sinh năm 1928, thượng sỹ Trung đội trưởng, không có thông tin về quê quán, đề ngày 1/5/1967, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967

 

 

 

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016

[7.9.2] Diễn biến trận chiến đấu của Trung đoàn xe tăng 273/Quân đoàn 3 tại khu vực lăng cha Cả sáng 30/4/1975 – P3

Link các phần liên quan:

[7.9.1] Trao đổi với tác giả chụp các bức ảnh về trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975 - P2

[7.9] Trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975

 

 

 

Sau đây là diễn biến trận chiến đấu của Trung đoàn xe tăng 273 phối hợp với Trung đoàn bộ binh 24 tại khu vực Lăng cha Cả sáng ngày 30/4/1975.


– Đúng 5h30 sáng ngày 30/4/1975, tiểu đoàn tăng 1 và Trung đoàn bộ binh 24 được lệnh xuất kích.Thê đội 1 gồm có 7 xe tăng T54 cùng 4 xe K63 dẫn đầu tiến vào ngã tư Bảy Hiền. 

– 8h quân ta chiếm được ngã tư Bảy Hiền và bắt đầu tiến vào khu vực Lăng Cha Cả.

  – 9h20 phân đội đi đầu cách ngã ba Lăng Cha Cả 100m, 2 xe tăng T54 bắn vào ngã ba và các vị trí xung quanh lăng Cha Cả. Địch ở cổng sân bay, cổng Bộ Tổng tham mưu và trên các nhà cao tầng kháng cự quyết liệt. 

– Lúc 9h30, 2 xe tăng T54 cùng bộ binh xung phong vào cổng sân bay. Vượt qua ngã ba lăng Cha Cả chừng 100m, xe đi đầu bị trúng đạn bốc cháy, khói bụi mù mịt không quan sát được. Xe thứ 2 tiến qua ngã ba cũng bị bắn cháy. Xe K63 của đại đội trưởng bám sát chi viện cho 2 xe T54 cũng bị bắn cháy. Phân đội đi đầu của Tiểu đoàn tăng 1/ Trung đoàn xe tăng 273/Quân đoàn 3 đã không còn đủ sức tiếp tục đột phá. 

– Đại đội tăng khác (có 8 xe tăng T54) của Tiểu đoàn tăng 1 được điều lên thay cho phân đội đi đầu. Hai khẩu pháo 85mm được đưa lên để bắn trực tiếp, chi viện cho bộ binh và xe tăng. Tiểu đoàn 5 bộ binh vận động lên áp sát địch hỗ trợ cho xe tăng thiết giáp xung phong. 9h30 đại đội này được lệnh xuất phát, tuy nhiên bị máy bay địch đánh trúng đội hình nên hỏng mất 2 xe, còn lại 6 xe, được lệnh đưa 4 xe lên tăng cường cho phân đội đi đầu. 

– 10h phân đội tăng cường tới ngã ba Lăng Cha Cả, các xe được lệnh dừng lại quan sát địch và đường tiến, chờ bộ binh tiếp cận địch mới xung phong. 

– Xe 326 của đại đội đi đầu bị địch bắn cháy. Đại đội trưởng ở xe thứ 3 phát hiện được địch từ phía cổng Bộ tổng tham mưu bắn sang và lệnh cho các xe tập trung hỏa lực tiêu diệt. 

– Xe 815 đi thứ 2 tiếp tục tiến, lại bị địch bắn cháy. Năm xe bị cháy làm tắc đường.

 – Phát hiện thấy một đường ở phía tây chùa Lăng Cha Cả, đại đội trưởng lệnh cho xe số 353 rẽ sang trái tiếp tục xung phong. Xe này tiến chừng 100m tạm dừng bắn 1 phát đạn pháo thì lại trúng đạn địch, hỏng nặng.

Như vậy tại khu vực này có tất cả 5 xe tăng T54 và 1 xe thiết giáp K63 bị cháy.

Không ảnh này cho thấy rõ vị trí 5 xe tăng cháy. Nhóm 3 xe ở phía trên có 1 xe số hiệu 815, chiếc xe đang bị bốc cháy qua nhìn số hiệu trên tháp pháo Rongxanh đoán mang số hiệu 326. Ngoài ra chữ T ở phía mũi xe tăng và phía sau tháp pháo, Rongxanh cho rằng viết tắt chữ "Ta" để nhận biết xe tăng ta. Chữ ngả qua màu vàng: Có lẽ do bị cháy nên màu trắng ngả qua vàng.

 

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

[7.9.1] Trao đổi với tác giả chụp các bức ảnh về trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975 - P2


10 năm trước (Tháng 4/2006), khi tôi (Rongxanh) thấy tấm hình này trên trang chuyên về ảnh là Corbis, đã đưa lên diễn đàn Ttvnol.com, ngay lập tức đã có ý kiến nghi ngờ về tính xác thực của những bức hình này. Các ý kiến này đều cho rằng đây là những bức ảnh giả, làm gì có việc tổn thất lớn như vậy của phía Quân Giải phóng trong thời điểm này, khi quân lực VNCH đã tan rã!!

Tuy nhiên, có bác Altus đã mail hỏi tác giả những bức ảnh chụp này, và đã nhận được phản hồi. Nội dung các email trao đổi như sau:

Ngày 11/5/2006
Các bác,
Các bác tranh luận hăng quá Tôi đã liên lạc được với phóng viên Jacques Pavlovsky, và sau đây là hai bức thư trả lời của ông:
''Bonsoir,
Je vais essayer de répondre à vos questions.
La première photo ( celle des chars en feu) a été faite à Saïgon, à l''entrée Nord ( ?) de la ville, dans un quartier de la périphérie, le lendemain de l''entrée des Troupes Nord Vietnamiennes.
La légende ne doit pas être bonne, cette photo a été prise le premier mai et non comme indiqué le 30 avril.Comme nous avons été bloqué, avec nos films, à Saigon de nombreux jours avant d''aller à Ventiane, il est possible que ma rédaction de l''époque est faussement légendée cette image.
Ces chars contenaient à l''intérieur des obus qui de temps en temps
éclataient sous la chaleur des flammes.Quant à la deuxième ( les jeunes femmes en bicyclette) elle est faite au même endroit un ou deux jours après le première, mais je n''en ai pas un souvenir précis. Les chars avaient été mis sur le coté de la rue pour laisser la circulation. Il faudrait regarder les planches-contact. C''est aujourd''hui très difficile... mais possible ! Quand j''irai à Paris, ce qui est rare, j''aurai peut-être accès au gardiennage ou sont bloquées les images non numérisées. Pas de promesse mais j''essaierai.
Si vous avez d''autres questions, je tacherai d''y répondre. N''hésitez pas ! En 1979, j''ai passé de nombreuses semaines en mer de Chine, à Poulo Bidong, etc..avec l''Ile de Lumière;
Bien cordialement.
Jacques PAVLOVSKY''

Xin chào,
Tôi sẽ thử trả lời những thắc mắc của ông.
Tấm ảnh thứ nhất (mấy cái xe tăng đang cháy), chụp ở Sài gòn, tại một cửa ngõ phía Bắc (?) thành phố, một khu ngoại ô, một ngày sau khi quân Bắc Việt vào thành phố Chú thich (trong sách) không chính xác, ảnh này chụp ngày 01/05 chứ không phải 30/04 như họ viết. Hồi đó bọn tôi bị kẹt, cùng với phim, ở Sài Gòn nhiều ngày trước khi sang được Vientian, có lẽ tòa soạn của tôi đã ghi nhầm ngày.
Ba chiếc tăng này chứa nhiều đạn bên trong và đạn cứ chốc chốc lại nổ vì lửa nóng. Tấm ảnh thứ hai (có mấy cô gái đi xe đạp), được chụp cũng ở chỗ ấy, sau khi chụp tấm thứ nhất một hoặc hai ngày, bây giờ tôi không còn nhớ chính xác. Lúc này mấy cái xe tăng đã được đẩy sang lề đường để giải tỏa giao thông. Có khi tôi phải xem lại bộ ảnh gốc (planche-contact là ảnh chụp xếp theo thứ tự như ở hiệu ảnh rửa thử index làm mẫu, kiểu như slide-show, nhìn có thể nhớ lại là ảnh nào chụp trước hay sau ảnh nào, có thể giúp nhớ lại nhiều điều) Cái này hơi khó, nhưng có thể làm được...Bao giờ tôi có dịp lên Paris, mà tôi ít đi lắm, có thể tôi sẽ vào được chỗ lưu trữ ảnh gốc, chưa số hóa. Tôi không dám hứa nhưng tôi sẽ cố.
====

Trao đổi khác:

Sau đấy tôi gửi cho ông ta tấm ảnh mới chụp của bác ov10, và hỏi ông ta về chuyện nòng pháo và hỏi sao chỗ ấy lại vắng tanh vắng ngắt, sao không có bộ đội canh xe. Ông ta trả lời thế này: ''Đúng là chỗ ấy đấy, chỉ cách chừng vài chục mét thôi, phong cảnh giống hệt.
Chuyện nòng pháo thì tôi chịu. Trên ảnh của tôi có ba cái xe tăng, nhưng cũng có thể còn những cái khác nữa bên cạnh chăng ? Tôi không nhớ nữa.
Mấy cái xe này nằm ngay giữa đường, bọn tôi thì đi taxi tới, chẳng ai nói gì chúng tôi cả. Tôi nhớ có một lũ trẻ ở gần đấy. Chỗ đó nguy hiểm, vì đạn trong xe có thể nổ. Bọn tôi bảo lũ trẻ đừng có tới gần, nhưng chúng chỉ cười thôi! Bọn tôi đi thêm vài trăm mét nữa thì quân Bắc Việt bắt chúng tôi quay lại.
Hôm 30/04, tôi cùng bộ đội đi theo những chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập, xông lên bãi cỏ. Khoảnh khắc lịch sử đấy! Chỉ vài phút sau ông Minh đi ra, thế là tôi chụp được!

===

[7.9] Trận chiến của Trung đoàn xe tăng 273 - Quân đoàn 3 tại khu vực Lăng cha Cả/ Sài gòn sáng ngày 30/4/1975



Cách đây 41 năm, sáng sớm ngày 30/4/1975, Trung đoàn 273 xe tăng của Quân đoàn 3 đã cùng với Sư đoàn 10 tấn công vào mục tiêu là Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa. Khi đến khu vực vòng xoay Lăng cha Cả (Ngày nay là khu vực giao giữa đường Cộng Hòa - Lê Văn Sỹ - Hoàng Văn Thụ - Bùi Thị Xuân) đã gặp phải sự chống cự quyết liệt của phía Việt Nam cộng hòa.

Hình ảnh sau trận chiến dữ dội của đơn vị xe tăng thuộc Trung đoàn 273 với phía VNCH đã được ông Jacques Pavlovsky (Nhiếp ảnh gia người Pháp) ghi lại, cho thấy mức độ ác liệt của trận chiến tại những giờ phút cận kề chiến thắng
(Những ảnh này lấy từ nguồn ảnh của bác Ngao5 post)









Không ảnh khu vực



Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

[2.28.1] Vài nét sơ lược về Trung đoàn 2 – Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5, thông tin ghi nhận của phía Mỹ năm 1970

2016032781041.28 – Thông tin đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Xin giới thiệu một số thông tin sơ lược về Trung đoàn 2 – Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5, do phía Mỹ ghi nhận năm 1970

Trung đoàn 2 được thành lập tháng 3/1962 ở khu vực gần sông Xa Lo địa phận tỉnh Quảng Ngãi – Kontum, gồm có các tiểu đoàn 20, 90, 300.

Từ năm 1962 đến 1964, trung đoàn trú quân ở khu vực rừng núi thuộc huyện SƠn Hà – tỉnh Quảng Ngãi.

Đầu năm 1965, Trung đoàn hoạt động ở các tỉnh Quảng Ngãi – Phú Yên – Bình Định, với nhiệm vụ chính là tấn công các lực lượng tiếp viện khi giao chiến.

Tháng 9/1965, Trung đoàn tham gia các cuộc tấn công ở huyện Phù Mỹ – tỉnh Bình Định.

Từ tháng 8 đến tháng 11/1966, Trung đoàn 2 hoạt động ở khu vực Phù Cát – Vĩnh Thạnh và Hoài Ân – tỉnh Bình Định.

Trong tháng 12/1966, Trung đoàn quay về tỉnh Quảng Ngãi và ở đây cho đến tận tháng 12/1967, sau đó quay lại Bình Định. Thời gian này, Trung đoàn chuẩn bị cho chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân.

Tháng 6/1968, Trung đoàn 2 rời Bình Định, và quay trở lại Quảng Ngãi, sau đó phía Mỹ không ghi nhận được thông tin về Trung đoàn cho đến tháng 10/1968. Tháng 9/1969, phía Mỹ ghi nhận thông tin huyện Hòai Nhơn được lệnh phối hợp với Trung đoàn 2 sẽ di chuyển từ phía Nam Quảng Ngãi vào hoạt động trên địa bàn huyện. Các thông tin ghi nhận tiếp theo vào tháng 10/1969 cho thấy một số đơn vị của Trung đoàn có nhiệm vụ thu mua lúa gạo. Một số thông tin khác cũng ghi nhận sự xuất hiện của các đơn vị thuộc Trung đoàn ở Tam Quan, Hoài Nhơn.

Tháng 11, phía Mỹ ghi nhận thông tin Trung đoàn di chuyển về phía Nam từ huyện Tam Quan và Hoài Nhơn, về huyện Phù Mỹ, trong trạng thái thiếu thốn lương thực và nhân lực, để nghỉ ngơi và huấn luyện chính trị.

Từ tháng 12/1969 đến tháng 4/1970, Trung đoàn 2 không giao chiến, mà nghỉ ngơi và huấn luyện ở khu vực Hoài Ân, Phù Mỹ.

[3.33.6] Bản tự nhận xét của bác Bùi Xuân, Trung đội phó, đơn vị thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, năm 1967

2016021719032.21 – Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bản tự nhận xét cá nhân của bác Bùi Xuân là Trung đội phó, không có thông tin về quê quán, đề ngày 30/4/1967, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967







Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2016

[3.33.5] Bản tự nhận xét của bác Thái Văn KHa, Trung đội trưởng, quê tại Hợp tác xã Đại đồng – xã Diễn Cát – huyện Diễn Châu – tỉnh Nghệ An, năm 1967

2016021719032.18 – Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bản tự nhận xét cá nhân của bác Thái Văn Kha là Trung đội trưởng, đề ngày 30/4/1967, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967






Thứ Hai, 14 tháng 3, 2016

[3.33.4] Bản nhận xét của bác Đặng Văn Thịnh – Trung đội phó, có thể thuộc đơn vị hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5, không có địa chỉ quê quán, ngày 30/4/1967

2016021719032.16 - Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Bản nhận xét cá nhân của bác Đặng Văn Thịnh là Trung đội phó, đơn vị có thể là thuộc Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.
Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967



 


Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

[3.33.3] Bản tự nhận xét cán bộ trung đội và bản thành tích cá nhân của bác Nguyễn Hữu Hý, Trung đội phó thuộc đơn vị hậu cần của Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5, năm 1967

2016021719032.11 - Những kỷ vật thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước



Bác Nguyễn Hữu Hý là Trung đội phó, đơn vị thuộc Đại đội 2 - Tiểu đoàn 50 - Đơn vị 493 (Phòng Hậu cần ) SƯ đoàn 3 Sao Vàng, quân khu 5.

Các tài liệu này phía Mỹ thu tại Bình Định tháng 5/1967


 1. Bản tự nhận xét cán bộ Trung đội 







2. Bản thành tích cá nhân




Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

[2.27] Thông tin về hệ thống số hiệu các đoàn/ đơn vị quân đội nhân dân VN chi viện vào Nam trong kháng chiến chống Mỹ [Quy định mật danh/ quy định số hiệu các đoàn chi viện]

2016030121005.135




Từ tháng 11/1967 cho đến tháng 2/1968 phía Mỹ ghi nhận đã có khoảng 50 đoàn/ đơn vị chi viện vào miền Nam Việt Nam.

Tháng 2/1968, phía Mỹ phát hiện phía Quân đội nhân dân Việt Nam thay đổi hệ thống đánh số các đoàn/ đơn vị chi viện vào miền Nam, từ hệ thống có 3 chữ số lên thành hệ thống có 4 chữ số, trong đó chữ số đầu tiên chỉ ra đích đến của đoàn/ đơn vị chi viện, là để chỉ chiến trường theo quy định của Quân đội Nhân dân Việt nam  [Quy định mật danh/ quy định số hiệu các đoàn chi viện].

Cụ thể như sau:
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 10xx, nơi đến là Quân khu 5
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 20xx, nơi đến là Trung ương Cục miền Nam
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 30xx, nơi đến là Mặt trận B3 Tây Nguyên
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 40xx, nơi đến là Quân khu Trị Thiên
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 70xx, nơi đến là Chiến trường B2 Nam bộ
  • Các đoàn/ đơn vị có số hiệu 90xx, nơi đến là khu vực giới tuyến DMZ (Quân khu Trị Thiên).

Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

[3.33.2] Bản tự nhận xét của bác Phan Văn Toản, ngày 29/4/1967, Trung sỹ - Trung đội phó, quê quán thôn Trung Mỹ, xã Hồng Xuân, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình

2016021719032.09
 
Bác Toản sinh ngày 25/10/1942, nhập ngũ 5/4/1962, Rongxanh đoán có thể thuộc đơn vị hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng. ĐỊa danh huyện Thư Trì hiện nay là huyện Vũ Thư (https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Th%C6%B0). Ngày 18 tháng 12 năm 1976 hợp nhất 3 xã Hồng Xuân, Tam Tỉnh và Đồng Thanh thành xã Hồng Lý. Ngày 13 tháng 1 năm 1989, chia xã Hồng Lý thành hai xã: Hồng Lý và Đồng Thanh.


Vậy quê quán của bác Toản hiện nay thuộc huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình .

Tài liệu này lính Mỹ thu được năm 1967 tại Bình ĐỊnh.




Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

[2.26] Vài nét về Trung đoàn 9 Quang Trung – Sư đoàn 304 và các tiểu đoàn trực thuộc, trong kháng chiến chống Mỹ



2016022426038

(Bài này Rong xanh đã post năm 2102, nay post lại trên blog)

1. Về Trung đoàn 9 Quang Trung – Sư đoàn 304



Đầu tháng 9/1965, Trung đoàn được lệnh hành quân về vùng Thanh Liêm - Hà Nam để củng cố và huấn luyện. Sau khi phần lớn lực lượng của Sư đoàn 304 đã hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, Trung đoàn 9 cũng được tách khỏi đội hình sư đoàn.

Cuối năm 1966, do yêu cầu của chiến trường, Trung đoàn được lệnh bổ sung tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 cho mặt trận Bình - Trị - Thiên.

Ngay sau khi tổ chức cho 2 tiểu đoàn vào Nam chiến đấu, Trung đoàn khẩn trương tuyển quân tổ chức thành 2 tiểu đoàn mới và tiếp tục huấn luyện.

Tháng 7/1967, Trung đoàn trưởng Trần Văn Khám và Chính ủy Lê Khả Phiêu cùng Trung đoàn vào nam chiến đấu ở khu vực giáp ranh Quảng Trị - Ba Lòng đến triền sông Mỹ Chánh.

Tết Mậu Thân 1968, TRung đoàn 9 là 1 trong những trung đoàn chủ lực tấn công vào Huế.

Sau chiến dịch Huế 1968, Trung đoàn hoạt động độc lập và đến năm 1970 tham gia xây dựng và là 1 Trung đoàn mạnh của Sư đoàn 968.


2. Các tiểu đoàn trực thuộc Trung đoàn 9


Tiểu đoàn 1- Trung đoàn 9



- Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 9 – Sư đoàn 304 tiền thân là Tiểu đoàn 250 – Trung đoàn Quang Trung thành lập 23/9/1947 tại Thanh Hóa. Năm 1950 Trung đoàn Quang Trung trực thuộc Sư đoàn 304 và đổi tên thành Trung đoàn 9. Tiểu đoàn 250 đổi tên thành Tiểu đoàn 1.

- Tháng 1/1965 tiểu đoàn 1 được lệnh sang Trung Lào chiến đấu cùng lực lượng Pathet Lào. Tháng 7/1965 đơn vị rút về nghỉ ngơi tại Quảng Bình, và di chuyển về Vụ Bản – Hòa Bình để huấn luyện trước khi chi viện vào miền Nam vào tháng 1/1966.

- Tháng 1/1967 Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 9 mang mật danh Đoàn chi viện 415 bắt đầu đi vào miền Nam.Tiểu đoàn 1 đến miền Nam (tỉnh Quảng Trị) ngày 15/3/1967, với quân số 450.

- Sau đó tiểu đoàn 1 di chuyển về huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên và trực thuộc Trung đoàn 6 bộ binh của Quân khu Trị Thiên. Lúc này tiểu đoàn 1 mang phiên hiệu tiểu đoàn 802. (Tiểu đoàn 802 cũ sau đó di chuyển về phía Nam Thừa Thiên và đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 4 và trực thuộc Trung đoàn 4).

- Mùa xuân năm 1967, Quân khu Trị Thiên có sự thay đổi về tổ chức, thành lập Trung đoàn 5 hoạt động ở phía Nam thành phố Huế. Tiểu đoàn 802 (hay tiểu đoàn 1/ Trung đoàn 9) di chuyển về phía Nam tỉnh Thừa Thiên, và từ tháng 9/1967 được biên chế về Trung đoàn 5.

- Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, tiểu đoàn có tham gia tấn công thành phố Huế (ga Huế) cùng với các bộ phận của Trung đoàn 5, và bị tổn thất nặng. Sau Tết, tiểu đoàn phân tán về khu vực đồng bằng trũng phía Nam huế, và hoạt động ở huyện Phú Vang và phía bắc huyện Hương Thủy, bao gồm cả vùng Nam – Đông và Bắc Huế.

- Tháng 5/1968 tiểu đoàn hoạt động tại khu vực Phú Bài.

- Tháng 7/1968, tiểu đoàn được biên chế vào Trung đoàn 9 bộ binh (Thành lập lại?) ở phía Tây tỉnh Thừa Thiên.

- Tháng 9/1968, tiểu đoàn rút về Lào, sau đó quay lại vùng A Shau/ Thừa Thiên vào tháng 1/1969.


Tiểu đoàn 3 hay d816 – Trung đoàn 9



-        Tiểu đoàn 816 hay Tiểu đoàn 3 – Trung đoàn 9 hình thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 1/1965 tiểu đoàn cùng với E9 tham gia chiến đấu ở Trung Lào, đến tháng 7/1965 thì quay về Quảng Bình.

-        Tháng 10/1965 E9 di chuyển về huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 1/1966 E9 di chuyển về vùng rừng núi huyện Vụ Bản tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 10/1966, E9 tham gia xây dựng khu vực phòng thủ tại Cửa Hội và 2 đảo Hòn Như – Hòn Mát.

-        Tiểu đoàn 3/ E9 di chuyển trong tháng 10/1966 đến địa giới tỉnh Ninh Bình và Nam Hà để huấn luyện.

-        Tháng 1/1967 d3 cùng với d1 bắt đầu lên đường vào Nam chi viện với mật danh Đoàn chi viện 416.

-        Tiểu đoàn 2 và Ban Chỉ huy Trung đoàn vẫn ở lại Bắc Việt Nam, và xây dựng Trung đoàn 9 mới.

-        Giữa tháng 3/1967, tiểu đoàn đổi phiên hiệu thành d416 và trực thuộc Trung đoàn 5 cùng với các Tiểu đoàn 808 và 814.

-        Tháng 4/1967, Tiểu đoàn di chuyển đến gần thị xã Quảng TRị. Sau đó d416 cùng với d814 tấn công Trung đoàn 1 VNCH tại La Vang. Sau đó tiểu đoàn rút quân về vùng Tây huyện Hải Lăng.

-        Tháng 5/1967 d416 đi về vùng ven biển huyện Hải Lăng - Quảng TRị

-        Sau khi Trung đoàn 5 bị giải thể, d416 quay về trực thuộc Mặt trận GP Quảng Trị.

-        Tiểu đoàn 818 (Tức Tiểu đoàn 2 – Trung đoàn 9) và Ban chỉ huy Trung đoàn 9 (Chi viện vào Nam VN tháng 9/1967) được đưa về Mặt trận Quảng TRị. Mặt trận Quảng Trị bao gồm các huyện Triệu Phong và Hải Lăng, có thể được thành lập vào tháng 9/1967.

-        Tháng 10 và 11/1967, d416 di chuyển về vùng ven biển để lấy lương thực.

-        Cuối năm 1967 và đầu tháng 1/1968, Quân khu Trị Thiên lại có sự thay đổi về tổ chức. Mặt trận GP Quảng Trị được đổi tên thành Mặt trận 7. d416 được đổi phiên hiệu thành d816 và di chuyển về tỉnh Thừa Thiên cùng với d818, và có thể là cả Ban chỉ huy Trung đoàn 9 cũ, để thành lập Trung đoàn 9 mới. Trung đoàn 9 được tái lập đầu tháng 1/1968 ở Tây Thừa Thiên, bao gồm d816 và d818.

-        Cuối tháng 1 và tháng 2/1968, d816, cùng với các bộ phận khác của E9, tham gia chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, tấn công vào thành phố Huế. Trung đoàn 9 có nhiệm vụ phối hợp cùng với Trung đoàn 6. Có thể d816 và d818 tiến vào thành phố Huế sau khi E6 đánh chiếm thành cổ Huế.

-        Tiểu đoàn 816 hiện diện ở lân cận thành phố Huế cho đến cuối tháng 3/1968.

-        Tháng 5/1968,

-        Tháng 1/1968, Mặt trận GP Quảng Trị được đổi thành Mặt trận 7. d416 đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 816 và di chuyển về Tây Thừa Thiên cùng với d818, để xây dựng Trung đoàn 9 mới.



-         Chiến dịch Mậu Thân 1968, d816 được tăng cường cho Trung đoàn 6, tham gia tấn công thành phố Huế.



-        Sau tháng 5/1968, có thể tiểu đoàn đã di chuyển về khu vực A Shau để nhận tiếp tế và bổ sung quân số.


Tiểu đoàn 2 hay d818 – Trung đoàn 9



-        d2/ E9 hình thành tháng 9/1947 tại Thanh Hóa với tên gọi là d304 thuộc Trung đoàn Quang Trung.

-        d2 tham gia chiến đấu tại Trung Lào đầu năm 1965 và quay về Quảng Bình – Việt Nam tháng 7/1965.

-        Tháng 10/1965 E9 di chuyển về huyện Bình Lục – tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 1/1966 E9 di chuyển về vùng rừng núi Vụ Bản để huấn luyện.

-        Tháng 10/1966 tham gia xây dựng khu vực phòng thủ ở Cửa Hội và trên đảo Hòn Như và Hòn Mát.

-        Tháng 1/1967, khi d1 và d3 tách ra khỏi E9 lên đường vào Nam chi viện, d2 và Ban chỉ huy E9 vẫn ở lại miền Bắc VN để huấn luyện và xây dựng E9 mới. Khoảng cuối tháng 1, đầu tháng 2/1967, d4 và d7 của Trung đoàn 271 – Sư đoàn 3741 được biên chế về Trung đoàn 9. d4 và d7 trở thành d1 và d3 của E9.

-        D2 bắt đầu xuất phát chi viện vào Nam tháng 3 hoặc tháng 4/1967, với mật danh Đoàn chi viện 418, đến khu vực Tây Quảng Trị vào tháng 8/1967.

-        Tháng 9/1967, d2 đổi phiên hiệu thành d818 và trực thuộc Mặt trận GP Quảng Trị. Mặt trận GP Quảng Trị được hình thành từ việc giải thể E5 và Ban chỉ huy E9, và có thể cả 1 bộ phận của Tỉnh ủy Quảng Trị.

-        Tháng 1/1968, d818 và d816 cùng Ban chỉ huy E9 cũ di chuyển về Tây Thừa Thiên để xây dựng E9 mới.

-        Tuy nhiên E9 mới chưa đi vào hoạt động độc lập cho đến cuối tháng 1/1967, mà vẫn hoạt động phối hợp cùng với E6 chuẩn bị (?) cho chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

-        Trung đoàn 9 (Cộng thêm d815, mà trước đây trực thuộc E5) có thể đóng quân ở núi Don Trau (?) cuối tháng 1/1967. Từ đây, d818 và d816 di chuyển đến núi Gió để phối hợp với d806/ E6 trước khi tiến về Huế.

-        D818 hiện diện ở Huế tháng 2/1968, và đến rút khỏi Huế trước ngày 24/2/1968.

-        E9 vẫn tiếp tục tham gia tấn công vào tháng 5/1968.

-        Tháng 5/1968, d818 vẫn ở lân cận Huế, sau đó có thể rút về vùng A Shau để củng cố và bổ sung tiếp tế.