2017110648018
Giữa năm 1970, một đơn vị phía Quân đội VNCH phát hiện ra khu vực Bệnh viện quân y mang số hiệu 88 của Quân khu Trị Thiên - Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Bệnh viện quân y 88 có khoảng 50 lán trại, và một khu nghĩa trang có khoảng 200 ngôi mộ.
Khu vực phát hiện Bệnh viện hiện nay nằm ở huyện Dakrong - tỉnh Quảng Trị (Có tọa độ khu vực phát hiện Bệnh viện).
Hy vọng rằng khu vực này đã được quy tập!
[Cập nhật 11/11/2017]
Theo thông tin Rongxanh hỏi, thì đội quy tập tỉnh Quảng Trị đã tìm kiếm và quy tập tại khu vực này.
Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017
[5.58] Địa danh (9): Phum Tha Mây, Bothapan, Cơ Tham, tỉnh Kandal - Campuchia; đơn vị S7 Đoàn 200 ngày 8/5/1973
20171106 - Địa danh
Có 1 Liệt sỹ thuộc đơn vị S7 Đoàn 200 hy sinh ngày 8/5/1973 do bị B52 đánh vào căn cứ, nơi hy sinh là phum Tha Mây, Bothapan, Cơ Tham, Cần Đan.
Rà soát các thông tin liên quan, Rongxanh nhận thấy địa danh sau trên bản đồ là phù hợp nhất:
Phum Tha mây = Phum Thmei
Bothapan = Pouthi Ban
Cơ Tham = Huyện Koah Thum
Cần Đan = Tỉnh Kadal.
Bản đồ quân sự Mỹ khu vực so với bản đồ hành chính hiện nay của huyện Kaoh Thum tỉnh Kandal:
Có 1 Liệt sỹ thuộc đơn vị S7 Đoàn 200 hy sinh ngày 8/5/1973 do bị B52 đánh vào căn cứ, nơi hy sinh là phum Tha Mây, Bothapan, Cơ Tham, Cần Đan.
Rà soát các thông tin liên quan, Rongxanh nhận thấy địa danh sau trên bản đồ là phù hợp nhất:
Phum Tha mây = Phum Thmei
Bothapan = Pouthi Ban
Cơ Tham = Huyện Koah Thum
Cần Đan = Tỉnh Kadal.
Bản đồ quân sự Mỹ khu vực so với bản đồ hành chính hiện nay của huyện Kaoh Thum tỉnh Kandal:
Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017
[5.57] Địa danh (8): Đèo bản Long trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh/đường 559 Trường Sơn - Trung đoàn 209 trên tuyến chi viện, ngày 28/2/1968
20171104
Theo website Chinhsachquandoi.gov.vn thì ngày 28/2/1968, có 7 chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209 (E209 mũ sắt) trên đường hành quân đã hy sinh do bị máy bay Mỹ oanh tạc tại đèo Bản Long (Hạ Lào).
Rà soát các thông tin, Rongxanh thấy có 1 khu vực có các thông tin liên quan phù hợp nhất với dữ liệu ở trên. Vị trí đèo bản Long trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh/ đường 559 Trường Sơn trên bản đồ như sau:
Danh sách có tên và quê quán các chiến sỹ E209 hy sinh
Theo website Chinhsachquandoi.gov.vn thì ngày 28/2/1968, có 7 chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209 (E209 mũ sắt) trên đường hành quân đã hy sinh do bị máy bay Mỹ oanh tạc tại đèo Bản Long (Hạ Lào).
Rà soát các thông tin, Rongxanh thấy có 1 khu vực có các thông tin liên quan phù hợp nhất với dữ liệu ở trên. Vị trí đèo bản Long trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh/ đường 559 Trường Sơn trên bản đồ như sau:
Danh sách có tên và quê quán các chiến sỹ E209 hy sinh
STT | Họ tên | Năm sinh | Quê quán | Ngày hi sinh | Nơi hi sinh | Nơi an táng | Đơn vị | Trường hợp hy sinh |
1 | Nguyễn Văn Biển | 1943 | Nam Hưng, Tiền Hải, Thái Bình | 28/02/1968 | Cây số 18 đèo Bản Long Hạ, Lào | E209 | Bị bom | |
2 | Đào Chinh Chấn | 1935 | Tiêu Công, Tiến Châu, Vĩnh Phú | 28/02/1968 | Binh Trạm 5, Mộ số 7 | c17/e209 | ||
3 | Tạ Văn Cúc | 1943 | Yên Tâm, Yên Đồng, Yên Lạc, Vĩnh Phú | 28/02/1968 | Binh Trạm 5 - Binh Trạm 5, Mộ số 8 | Km 18 đèo Bản Long ( hạ Lào) | c20/e209 | Hành quân bị máy bay bắn |
5 | Nguyễn Văn Hồng | 1942 | Thường Lệ, Đại Thịnh, Yên Lãng, Vĩnh Phú | 28/02/1968 | Cây số 18 đèo Bản Long Hạ Lào | c17/e209 | Máy bay oanh tạc khi đi hành quân | |
6 | Doãn Công Khai | 1943 | Hồng Châu, Yên Lạc, Vĩnh Phú | 28/02/1968 | Km 18 đèo Bản Long ( hạ Lào) | c20/e209 | Hành quân bị oanh tạc | |
7 | Bùi Trọng Khóa | 1936 | Đức Hòa, Thanh Tâm, Thanh Liêm, Nam Hà | 28/02/1968 | km 18 đèo bản Long, Hạ Lào | E209 | Bị oanh tạc |
Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017
[5.56] Danh sách 41 Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 320 hy sinh tại ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, ngày 4/4/1966 (Nguồn từ Chinhsachquandoi.gov.vn)
20171103
Tìm kiếm trên website Chinhsachquandoi.gov.vn, Rongxanh thấy có 41 Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 320 hy sinh ngày 4/4/1966, do bị ném bom, và đều có nơi an táng là ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu, tỉnh Daklak.
Tại link này
[5.55] Địa danh: Ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 320, ngày 4/4/1966 Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku.
Tại link
[3.7] Một số giấy tờ của bác Trần Văn Nhu - Tiểu đoàn 635 - Trung đoàn 32 - Sư đoàn 1 Mặt trận B3 Tây Nguyên, quê ở xã Trực Tuấn - huyện Trực Ninh – tỉnh Nam Hà
có ghi chép (Có thể là của đ/c Nhu) cho thấy đ/c Nhu bị thương ngày 4/4/1966 trong một trận ném bom. Đơn vị đ/c Nhu đã bị ném bom từ lúc 7h30 đến 17h30 ngày 4/4/1966 bên bờ sông Gia Mơ [Ia Mơ??? là nhánh chảy vào sông Ya Lốp], khi đơn vị hành quân từ Đắc Lắc về Gia Lai. Đ/c Như được điều trị tại Bệnh viện V2 từ 12/4 đến 3/9/1966 và tham gia huấn luyện ngày 13/9/1966.
[Cập nhật 11/11/2017]
Nguyên nhân dẫn đến trận ném bom khốc liệt này như sau:
Tìm kiếm trên website Chinhsachquandoi.gov.vn, Rongxanh thấy có 41 Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 320 hy sinh ngày 4/4/1966, do bị ném bom, và đều có nơi an táng là ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu, tỉnh Daklak.
Tại link này
[5.55] Địa danh: Ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 320, ngày 4/4/1966 Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku.
Tại link
[3.7] Một số giấy tờ của bác Trần Văn Nhu - Tiểu đoàn 635 - Trung đoàn 32 - Sư đoàn 1 Mặt trận B3 Tây Nguyên, quê ở xã Trực Tuấn - huyện Trực Ninh – tỉnh Nam Hà
có ghi chép (Có thể là của đ/c Nhu) cho thấy đ/c Nhu bị thương ngày 4/4/1966 trong một trận ném bom. Đơn vị đ/c Nhu đã bị ném bom từ lúc 7h30 đến 17h30 ngày 4/4/1966 bên bờ sông Gia Mơ [Ia Mơ??? là nhánh chảy vào sông Ya Lốp], khi đơn vị hành quân từ Đắc Lắc về Gia Lai. Đ/c Như được điều trị tại Bệnh viện V2 từ 12/4 đến 3/9/1966 và tham gia huấn luyện ngày 13/9/1966.
[Cập nhật 11/11/2017]
Nguyên nhân dẫn đến trận ném bom khốc liệt này như sau:
Danh sách 41 liệt sỹ, có tên, quê quán:
STT | Họ tên | Năm sinh | Quê quán | Đơn vị | Ngày hi sinh | Trường hợp hi sinh: | Nơi hi sinh | Nơi an táng |
1 | Hoàng Văn Ảnh | 1944 | Thạch Lỗi, Cẩm Giàng, Hải Hưng | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
2 | Hồ Xuân Biên | 1945 | Xuân Hòa, Hòa Vang, Quảng Nam | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
3 | Phạm Huy Các | 1939 | Hiền Vân, Tiên Sơn, Hà Bắc | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Bốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
4 | Nguyễn Cảnh Châu | 1947 | Thanh Dương, Thanh Chương, Nghệ An | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắc | Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu |
5 | Bùi Văn Chức | 1945 | Thanh Yên, Thanh Chương, Nghệ An | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắc | Ngã 3 Sông Gia Lốc, Gia Liêu |
6 | Hoàng Ngọc Cư | 1939 | Nghi Thiết, Nghi Lộc, Nghệ An | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã Ba Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc | , |
7 | Mai Bằng Cử | 1943 | Trà Trung, Hải Nam, Hải Hậu, Nam Hà | c20 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Gia Liêu | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu |
8 | Đoàn Văn Dần | 1943 | Quảng hòa, Quảng Trạch, Quảng Bình | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia liêu Đắk Lắk | Ngã ba Gia Lốc Gia Liêu Đắk Lắk |
9 | Nguyễn Văn Đính | 1944 | Đại Yên, Bạch Đằng, Kinh Môn, Hải Hưng | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắk | Ngã ba Gia Lốc, Gia Liêu |
10 | Ngô Văn Doanh | 1937 | Quang Trung, Hoài Đức, Hà Tây | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc |
11 | Nguyễn Xuân Đức | 1944 | Anh Dũng, Tiên Lữ, Hải Hưng | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk | |
12 | Nguyễn Văn Đúng | 1943 | Minh Khai, Tiên Lữ, Hải Hưng | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk | |
13 | Nguyễn Văn Được | 1942 | Gia Sơn, Thái Sơn, Yên Dũng, Hà Bắc | c20 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia lốc, Gia Lai, Đắc Lắc | Tại ngã 3 sông |
14 | Nguyễn Thế Hậu | 1943 | Yên Phú, Trịnh Tiến, Yên Mỹ, Hải Hưng | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
15 | Lê Văn Hồng | 1944 | Nghi Công, Nghi Lộc, Nghệ An | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu Đắc lắc |
16 | Phí Xuân Hồng | 1946 | Đức Thượng, Hoài Đức, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
17 | Nguyễn Tiến Lưu | Yên Đức, Đề Thám, Thanh Thuỷ, Vĩnh Phú | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk | ||
18 | Phạm Văn Luyến | 1944 | Kim Đính, Kim Thành, Hải Hưng | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk |
19 | Trần Doanh Mai | 1935 | Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc |
20 | Lưu Hiến Nghị | 1943 | Hoằng Hợp, Hoằng Hóa, Thanh Hóa | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Biên | Gia Biên, Đắc Lắc |
21 | Nguyễn Văn Ngọ | 1942 | 78D Lý Thường Kiệt, Hà Nội | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc | |
22 | Nguyễn Văn Ngọc | 1943 | 57A, ngõ Văn Hương, Hàng Bột, Hà Nội | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc | |
23 | Nguyễn Bá Ngọc | 1942 | Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắc Lắc | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc |
24 | Lê Văn Nguyên | 1945 | 50 đường 158, khu Hai Bà, Hà Nội | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc | |
25 | Nguyễn Quang Nhận | 1944 | Thanh Tài, Thanh Chương, (Thanh Chi), Nghệ An | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Máy bay oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đăk Lắc |
26 | Trần Duy Phiêu | 1948 | Đức Thượng, Hoài Đức, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
27 | Dương Văn Quý | 1943 | Phùng Thượng, Phúc Thọ, Hà Tây | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc | |
28 | Nguyễn Viết Sinh | 1937 | Quang Trung, Hoài Đức, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc |
29 | Trần Đình Tại | 1943 | Hưng Thịnh, Bình Giang, Hải Hưng | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắk | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
30 | Trần Ngọc Tâm | 1945 | Xóm 7, Xuân Bắc, Xuân Trường, Nam Hà | c20 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngõ 3 sông Gia Lôi | Ngã ba sông Gia Lôi, Gia Liêu Đắc Lắc |
31 | Nguyễn Văn Tẩm | 1946 | Duy Tân, Kinh Môn, Hải Hưng | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắk | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
32 | Nguyễn Văn Thích | 1943 | Hoàng Liệt, Thanh Trì, Hà Nội | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc | |
33 | Phạm Văn Toán | 1943 | Minh Khai, Tiên Lữ, Hải Hưng | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Lốc, Gia Liêu | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk |
34 | Nguyễn Văn Tôn | 1944 | Yên Lệch, Khoái Châu, Hưng Yên | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu | |
35 | Trần Đình Trứ | 1944 | Thanh Quang, Nam Sách, Hải Hưng | c3 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắk | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
36 | Nguyễn Ngọc Trung | 1945 | Hồng Lạc, Thanh Hà, Hải Hưng | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắk Lắk | Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc |
37 | Nguyễn Văn Trường | 1939 | Tân Lĩnh, Tùng Thiện, Hà Tây | c1 d5 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông Gia Liêu, Đắc Lắc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
38 | Vũ Trọng Tường | 1943 | Minh Tân, Thủy Nguyên, Hải Phòng | c1 d5e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Sông gia liêu | Ngã 3, Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk |
39 | Bùi Đức Vẽ | 1941 | Xuân Điểu, Hưng Đạo, Tiên Lữ, Hải Hưng | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk | |
40 | Nguyễn Trọng Vĩ | 1944 | Thanh Cát, Thanh chương, Nghệ An | c12 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc | |
41 | Nguyễn Văn Viết | 1944 | Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Tây | c6 d6 e320 | 04/04/1966 | Bị oanh tạc | Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc |
Bản đồ khu vực ngã ba sông:
Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017
[5.55] Địa danh (7): Ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 320, ngày 4/4/1966
20171102
Có 1 liệt sỹ thuộc đơn vị Đại đội 6 - Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 320 bị hy sinh ngày 4/4/1966 do oanh tạc. Nơi hy sinh là ngã ba sông Gia Lốc Gia Liêu Daklak.
Tìm trên bản đồ Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku. Khu vực này bị ném bom ngày 4/4/1966.
Có 1 liệt sỹ thuộc đơn vị Đại đội 6 - Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 320 bị hy sinh ngày 4/4/1966 do oanh tạc. Nơi hy sinh là ngã ba sông Gia Lốc Gia Liêu Daklak.
Tìm trên bản đồ Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku. Khu vực này bị ném bom ngày 4/4/1966.
Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017
[3.57] Các Giấy khen của Quân khu miền Đông tặng đ/c Nguyễn Minh Sơn, quê quán ở Uyên Hưng - Tân Uyên - tỉnh Phước Thành (tỉnh Bình Dương), về thành tích trong trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 10/5/1967 và một số trận đánh khác
2017103058084
- Giấy khen, đề ngày 28/5/1967 do đ/c Nguyễn Hồng Lâm, Phó Chỉ huy trưởng Quân khu miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 10/5/1967.
- Giấy khen đề ngày 12/10/1967, do đ/c Dương Tư - Tham mưu phó Quân khu Miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trận pháo kích Bến Cát - Thủ Dầu Một đêm 2/9/1967.
- Giấy khen, đề ngày 12/9/1967 do đ/c Bùi Khắc Vũ/ Bùi Cát Vũ tham mưu trưởng Quân khu ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong 2 trận đánh sân bay Phú Lợi đêm 28/7/1967 và Bốt Thới Hòa đêm 4/8/1967.
Ảnh chụp các Giấy khen
- Giấy khen, đề ngày 28/5/1967 do đ/c Nguyễn Hồng Lâm, Phó Chỉ huy trưởng Quân khu miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 10/5/1967.
- Giấy khen đề ngày 12/10/1967, do đ/c Dương Tư - Tham mưu phó Quân khu Miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trận pháo kích Bến Cát - Thủ Dầu Một đêm 2/9/1967.
- Giấy khen, đề ngày 12/9/1967 do đ/c Bùi Khắc Vũ/ Bùi Cát Vũ tham mưu trưởng Quân khu ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong 2 trận đánh sân bay Phú Lợi đêm 28/7/1967 và Bốt Thới Hòa đêm 4/8/1967.
Ảnh chụp các Giấy khen
Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2017
[5.54] Địa danh (6): Khu kho dã chiến L2 của Binh trạm 41 - Binh đoàn Trường Sơn/ Đoàn 559, nam QL9 tại Lào, ngày 17/2/1972
20171022 Địa danh
1. Ngày 17/2/1972, khu vực nam QL9, gần các bản Kadap, Kengnang... hai bên ven sông Sê Pôn, trên đất Lào, bị không quân Mỹ ném bom .
2. Thông tin từ 1 bác cựu chiến binh cùng đơn vị cung cấp cho gia đình Liệt sỹ:
- LS hy sinh tại khu vực kho dã chiến L2 của Binh trạm 41 do bị ném bom B52 rải thảm vào hồi 4h30 sáng 17/2/1972 (Mồng 3 Tết), phá hủy khu kho L2 và 25 xe ô tô của đơn vị vận tải chuẩn bị lấy hàng chạy chuyến hàng đầu Xuân.
Số lái xe thương vong nhiều nên đơn vị phải nhờ đến lực lượng pháo cao xạ và công binh hỗ trợ giải quyết công tác thương binh - tử sỹ. Các Liệt sỹ được chôn cất tại khu vực bản Mường Chan phía hướng về thị trấn Tà Khống ven QL9 cách độ 300m.
- Đơn vị vận tải hoạt động tại khu kho này thời điểm đó là Đại đội 2 - Tiểu đoàn 54 ô tô vận tải của Binh trạm 41 Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn, vận chuyển hàng vào Binh trạm 42, vào khu vực Ashau, A Lưới.
Khu vực trên bản đồ:
1. Ngày 17/2/1972, khu vực nam QL9, gần các bản Kadap, Kengnang... hai bên ven sông Sê Pôn, trên đất Lào, bị không quân Mỹ ném bom .
2. Thông tin từ 1 bác cựu chiến binh cùng đơn vị cung cấp cho gia đình Liệt sỹ:
- LS hy sinh tại khu vực kho dã chiến L2 của Binh trạm 41 do bị ném bom B52 rải thảm vào hồi 4h30 sáng 17/2/1972 (Mồng 3 Tết), phá hủy khu kho L2 và 25 xe ô tô của đơn vị vận tải chuẩn bị lấy hàng chạy chuyến hàng đầu Xuân.
Số lái xe thương vong nhiều nên đơn vị phải nhờ đến lực lượng pháo cao xạ và công binh hỗ trợ giải quyết công tác thương binh - tử sỹ. Các Liệt sỹ được chôn cất tại khu vực bản Mường Chan phía hướng về thị trấn Tà Khống ven QL9 cách độ 300m.
- Đơn vị vận tải hoạt động tại khu kho này thời điểm đó là Đại đội 2 - Tiểu đoàn 54 ô tô vận tải của Binh trạm 41 Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn, vận chuyển hàng vào Binh trạm 42, vào khu vực Ashau, A Lưới.
Khu vực trên bản đồ:
Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017
[3.56] Lý lịch xin vào Đảng của họa sỹ Lê Đức Tuấn, trú quán số 3 Hàng Bút Hà Nội, được xác nhận ngày 11/11/1967, đơn vị Trung đoàn 209, do phía Mỹ thu được ngày 25/3/1968 tại nam đỉnh Chưtan Kra 1km
2017102149064
Lý lịch xin vào Đảng của bác Lê Đức Tuấn, sinh ngày 9/9/1942, quê quán tại làng Trạch Xá, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, trú quán số 3 Hàng Bút Hà Nội do phía Mỹ thu được ngày 25/3/1968 tại phía nam đỉnh Chưtan Kra 1km.
Bác Lê Đức Tuấn là chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209, là đơn vị tấn công cao điểm Chư tan Kra (FSB 14) huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, do lính Mỹ thuộc Sư đoàn 4 đóng giữ.
Tìm kiếm trên mạng thì có thêm một số thông tin về bác Lê Đức Tuấn, chủ nhân của Bản lý lịch như sau: Bác Lê Đức Tuấn là họa sỹ, đã sống qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hiện đang sống tại khu tập thể quân đội ở phố Lý Nam Đế. Cùng số kỷ vật của bác bị phía Mỹ thu giữ tại hậu cứ đơn vị ngày 25/3/1968, có cuốn sổ ký họa tranh, năm 2009 đươc phía Mỹ trao trả lại.
Sơ lược một số thông tin trong Lý lịch như sau:
Bác Tuấn công tác tại Công ty mỹ nghệ xuất khẩu từ tháng 8/1963. Ngày 27/3/1967 thì nhập ngũ.
Phần quan hệ bạn bè có ghi tên một số người: Đặng Thế Minh, 24 tuổi, là họa sỹ tại Viện Mỹ thuật Hà Nội; Phạm Vân 24 tuổi, họa sỹ công tác tại Tổng Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu 22 Ngô Quyền Hà Nội; Bùi Văn Nga 24 tuổi là họa sỹ công tác tại Xưởng phim hoạt họa.
Bản lý lịch này khai tại Bắc Thái ngày 26/8/1967, được Chi bộ Công ty Mỹ nghệ phẩm xuât skhẩu Hà Nội xác nhận ngày 15/9/1967; Ban đại biểu khối 8 (Khu dân cư nơi cư trú) xác nhận 16/9/1967; Bí thư Chi bộ 1 Trần Trọng Thủy xác nhận ngày 11/11/1967.
Ảnh chụp các trang Lý lịch
Chi tiết tại: http://giadinh.net.vn/xa-hoi/ngon-lua-chay-mai-20170727080633135.htm
Lý lịch xin vào Đảng của bác Lê Đức Tuấn, sinh ngày 9/9/1942, quê quán tại làng Trạch Xá, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, trú quán số 3 Hàng Bút Hà Nội do phía Mỹ thu được ngày 25/3/1968 tại phía nam đỉnh Chưtan Kra 1km.
Bác Lê Đức Tuấn là chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209, là đơn vị tấn công cao điểm Chư tan Kra (FSB 14) huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, do lính Mỹ thuộc Sư đoàn 4 đóng giữ.
Tìm kiếm trên mạng thì có thêm một số thông tin về bác Lê Đức Tuấn, chủ nhân của Bản lý lịch như sau: Bác Lê Đức Tuấn là họa sỹ, đã sống qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hiện đang sống tại khu tập thể quân đội ở phố Lý Nam Đế. Cùng số kỷ vật của bác bị phía Mỹ thu giữ tại hậu cứ đơn vị ngày 25/3/1968, có cuốn sổ ký họa tranh, năm 2009 đươc phía Mỹ trao trả lại.
Sơ lược một số thông tin trong Lý lịch như sau:
Bác Tuấn công tác tại Công ty mỹ nghệ xuất khẩu từ tháng 8/1963. Ngày 27/3/1967 thì nhập ngũ.
Phần quan hệ bạn bè có ghi tên một số người: Đặng Thế Minh, 24 tuổi, là họa sỹ tại Viện Mỹ thuật Hà Nội; Phạm Vân 24 tuổi, họa sỹ công tác tại Tổng Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu 22 Ngô Quyền Hà Nội; Bùi Văn Nga 24 tuổi là họa sỹ công tác tại Xưởng phim hoạt họa.
Bản lý lịch này khai tại Bắc Thái ngày 26/8/1967, được Chi bộ Công ty Mỹ nghệ phẩm xuât skhẩu Hà Nội xác nhận ngày 15/9/1967; Ban đại biểu khối 8 (Khu dân cư nơi cư trú) xác nhận 16/9/1967; Bí thư Chi bộ 1 Trần Trọng Thủy xác nhận ngày 11/11/1967.
Ảnh chụp các trang Lý lịch
Chi tiết tại: http://giadinh.net.vn/xa-hoi/ngon-lua-chay-mai-20170727080633135.htm
GiadinhNet - Chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng những câu chuyện, những kỷ vật chiến tranh để lại vẫn khiến người ta không khỏi ngạc nhiên vì sự kỳ diệu của nó. Trong đó, có cuốn ký họa, sau này được đánh giá là “nhật ký bằng tranh” của một người “lính mũ sắt” đã lưu lạc hơn 40 năm rồi trở về từ nửa kia Trái đất. Người lính - chủ nhân của cuốn ký họa đó là họa sỹ Lê Đức Tuấn.
Họa sỹ thương binh Lê Đức Tuấn. Ảnh: TGMột con người bình dịHọa sỹ Lê Đức Tuấn là “hàng xóm” nhà tôi. Ông sống trong khu nhà tập thể cũ trên “phố nhà binh” Lý Nam Đế (Hà Nội). Căn hộ của ông nằm “mãi tít” trên tầng 5 với diện tích khiêm tốn, đồ đạc giản dị nhưng được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Là họa sỹ nhưng ông không có lấy một không gian làm việc riêng đủ rộng rãi để “thả hồn” vào nghệ thuật…Trước đây, khi còn nhỏ, tôi chỉ biết đến ông Tuấn là một người hay chăm lo các công việc chung của khu tập thể. Tôi thấy ông hay viết bảng tin để thông báo cho bà con những việc cần làm. Mỗi lần ông viết bảng, trẻ con trong khu lại đứng xem và trầm trồ khen vì ông viết rất đẹp, chữ ông như những nét vẽ mềm mại, sinh động. Dáng người bé nhỏ, nhanh nhẹn, mọi người trong khu luôn thấy ông là một người tốt bụng, vui vẻ, thân thiện. Sau khi chuyển sinh hoạt Đảng về địa phương, tôi mới biết thêm về ông Lê Đức Tuấn trong vai trò là Bí thư Chi bộ Tổ dân phố số 10 (phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm). Sẽ chẳng ai biết nhiều về người chiến binh, người họa sĩ già Lê Đức Tuấn trong chiến tranh đã làm những gì, đã trải qua những chuyện gì. Vì không bao giờ ông kể lể công lao và những đóng góp của mình cho đất nước, ngay cả với con cháu. Cho đến một ngày cuốn ký họa kháng chiến của ông bị thất lạc hơn 40 năm, từ nửa bên kia Trái đất bỗng trở về với ông một cách ly kỳ thì dư luận mới quan tâm nhiều đến chủ nhân của nó - họa sỹ Lê Đức Tuấn.Sự trở về của cuốn “Nhật ký bằng tranh”Sự trở về của cuốn ký họa là một câu chuyện ly kỳ mà đến chính bản thân tác giả của nó cũng không thể hình dung được.Năm 1967, ông Tuấn lên đường nhập ngũ, là chiến sĩ của “lính mũ sắt”, đơn vị đặc biệt của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ra trận, bên cạnh súng trường, ông Tuấn chỉ mang theo bút vẽ, một cuốn sổ tay để ghi chép, ký họa và một tập thơ Puskin. Thay vì viết nhật ký, ông đã diễn tả tâm trạng, tình cảm, tình yêu quê hương đất nước của mình thông qua những bức ký họa. Mỗi làng quê ông đi qua, mỗi gương mặt để lại ấn tượng ông đã gặp, mỗi sinh hoạt của người lính đều hiện lên thật sống động qua màu sắc, nét vẽ của ông. Cuốn ký họa của ông đã có tới 112 bức và được dư luận sau này đánh giá như một cuốn “Nhật ký bằng tranh”. Tháng 3/1968, trong trận tiến công quân địch ở Chư Tan Kra (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum), ông Tuấn buộc phải bỏ lại ba lô cùng cuốn ký họa của mình ở hậu cứ. Sau khi đánh trận trở về, hậu cứ cũng đã bị lính Mỹ càn quét và san phẳng. Tất cả đều bị đốt sạch, không còn một dấu tích gì. Khi biết mình không thể lấy lại cuốn ký họa, trong nhật ký ngày 29/3/1968 của mình, ông Lê Đức Tuấn viết:“Buồn quá, mất hết cả tranh vẽ kể từ ngày bước chân vào bộ đội và mất hết cả những dụng cụ vẽ rồi. Biết làm thế nào? Từ nay mình không được vẽ nữa. Tiếc quá, bao nhiêu hình ảnh sinh động của đời bộ đội mình ghi được đều mất cả. Bao giờ chiến thắng, ta lại về xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Đó là cảm giác tiếc nuối, xót xa rất trong sáng của một người lính trẻ, như vừa mất đi cây súng thứ hai của mình, nhưng vẫn đầy lạc quan.Khi nhớ về những năm tháng chiến đấu gian khổ, khốc liệt, ánh mắt của họa sỹ Lê Đức Tuấn sáng rực lên, trong từng câu nói, từng cử chỉ, hành động đều như “có lửa”. Người họa sỹ già như đang sống lại thời quá khứ: “Cháu không thể tưởng được đâu. Ở những thời điểm chiến đấu ác liệt nhất, con người có sức mạnh lạ kỳ lắm! Chúng tôi không còn cảm giác sợ sệt, hay nao núng trước tiếng bom dội, tiếng pháo nổ của quân thù. Trong trận đánh, nhiều khi dép không có, chân giẫm phải mảnh bom đạn, tóe máu, bỏng rát mà vẫn chạy “như bay” qua mọi địa hình để tấn công địch. Lúc đó, tâm trí chúng tôi không còn điều gì khác ngoài việc phải “dạy cho kẻ địch biết thế nào là dân tộc Việt Nam anh hùng!”.Trong trận càn của lính Mỹ vào căn cứ của bộ đội ta năm ấy, cuốn ký họa kháng chiến của họa sỹ Lê Đức Tuấn đã rơi vào tay một quân nhân Mỹ (thiếu tá Robert B.Simpson). Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Việt được thể hiện qua từng bức ký họa đã làm người lính Mỹ cảm phục. Ông ta quyết định giữ lại làm kỷ vật thay vì đốt nó như bao thứ khác. Năm đó, Robert B.Simpson xé ba bức tranh trong cuốn ký họa gửi về tặng vợ, 109 bức còn lại ông mang tặng chỉ huy của mình, tướng William R.Peers. Cuốn ký họa sau đó theo tướng R.Peers rời Việt Nam trở về Mỹ. Ông giữ gìn nó cẩn thận đến lúc qua đời năm 1984 mới trao lại cho con gái là bà Penny Peers Hicks với tâm nguyện muốn trả lại cho chủ nhân của nó. Năm 2009, bà Hicks mới có cơ hội trao cuốn ký họa cho Bộ Quốc phòng Mỹ. Cuốn ký họa được gọi là “Nhật ký bằng tranh” đó đã được trao lại cho phía Việt Nam, trở thành một kỷ vật kháng chiến thiêng liêng và được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cho đến nay.Ngày thông tin về cuốn ký họa được công bố, dù đã nhận ra tác phẩm của mình nhưng vốn bản tính “rụt rè” và khiêm tốn, ông Tuấn chưa dám nhận ngay vì trong thông tin đưa ra lại cho rằng, đây là cuốn ký họa của một người lính đã hy sinh. Chỉ đến khi mọi thông tin được kiểm chứng, người họa sỹ già mới vỡ òa trong niềm xúc động khi gặp lại “đứa con tinh thần” của mình.
Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017
[3.55] Thư từ và ảnh cá nhân của 1 chiến sỹ Quân đội Nhân dân VIệt nam hy sinh ngày 31/1/1968 Tết Mậu Thân tại đầu tây đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, do phía Mỹ thu được ngày 2/2/1968
2017101745069 Kỷ vật thời chiến
Thư cá nhân dài 4 trang, đề gửi tới người tên Ngọt, không rõ tên và thông tin cá nhân người gửi, người nhận. Kèm theo là 3 bức ảnh chụp chung (Không nhìn rõ được), trong đó phía sau 1 bức ảnh có ghi: Ảnh kỷ niệm ngày 26/12/1967 các bạn thân ở Thủ đô Campuchia.
Theo nội dung bức thư thì có thể đoán người nhận tên là Ngọt, người gửi là một người thân (có thể là hàng xóm) của bác Ngọt. Rất có thể bác Ngọt chính là Liệt sỹ trong trận chiến đấu tại đầu tây sân bay Tân Sơn Nhất ngày 31/1/1968, mà ngày 2/2/1968 phía Mỹ thu được bức thư tại trận địa.[Rongxanh cập nhật, chỉnh sửa 18/10/2017].
Ngoài ra có 1 tấm giấy ghi các tên và số hiệu hòm thư: N.V.Quý, Quyết, Trần V Châu HT 11138 PV A1 (Rongxanh tra cứu thì số hòm thư này có thể thuộc về tiểu đoàn 261A TRung đoàn 1), Tuấn Hiệp 11105 PV H6270. Rongxanh tra cứu thì các hòm thư này thuộc về đơn vị của Phân khu 2.
Bức thư và ảnh do phía Mỹ thu được ở đầu phía Tây đường băng sân bay Tân Sơn NHất ngày 2/2/1968. Nơi đây rạng sáng ngày 31/1/1968 đã diễn ra trận tấn công ác liệt vào đầu tây sân bay, do các Tiểu đoàn 16, 267, 269 Quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện.
Ảnh chụp bức thư, và tấm ảnh:
Thư cá nhân dài 4 trang, đề gửi tới người tên Ngọt, không rõ tên và thông tin cá nhân người gửi, người nhận. Kèm theo là 3 bức ảnh chụp chung (Không nhìn rõ được), trong đó phía sau 1 bức ảnh có ghi: Ảnh kỷ niệm ngày 26/12/1967 các bạn thân ở Thủ đô Campuchia.
Theo nội dung bức thư thì có thể đoán người nhận tên là Ngọt, người gửi là một người thân (có thể là hàng xóm) của bác Ngọt. Rất có thể bác Ngọt chính là Liệt sỹ trong trận chiến đấu tại đầu tây sân bay Tân Sơn Nhất ngày 31/1/1968, mà ngày 2/2/1968 phía Mỹ thu được bức thư tại trận địa.[Rongxanh cập nhật, chỉnh sửa 18/10/2017].
Ngoài ra có 1 tấm giấy ghi các tên và số hiệu hòm thư: N.V.Quý, Quyết, Trần V Châu HT 11138 PV A1 (Rongxanh tra cứu thì số hòm thư này có thể thuộc về tiểu đoàn 261A TRung đoàn 1), Tuấn Hiệp 11105 PV H6270. Rongxanh tra cứu thì các hòm thư này thuộc về đơn vị của Phân khu 2.
Bức thư và ảnh do phía Mỹ thu được ở đầu phía Tây đường băng sân bay Tân Sơn NHất ngày 2/2/1968. Nơi đây rạng sáng ngày 31/1/1968 đã diễn ra trận tấn công ác liệt vào đầu tây sân bay, do các Tiểu đoàn 16, 267, 269 Quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện.
Ảnh chụp bức thư, và tấm ảnh:
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Đăng nhận xét