Phần trước: [4.18] Thông tin của phía mỹ về Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn E101 - Sư đoàn 1 tại QL13 Hớn Quản ngày 12/8/1969
Sơ đồ trận phục kích của Trung đoàn 101D – Sư đoàn 1 trên QL13 ngày 12/8/1969 (Thông tin từ phía Mỹ)
Trận phục kích của Trung đoàn 101D – Sư đoàn 1 trên QL13 ngày 12/8/1969
- Đoàn xe quân sự Mỹ bắt đầu di chuyển vào lúc 12h00 [Giờ Sài Gòn, sớm hơn giờ Hà Nội 1h] và 1 bộ phận khác di chuyển từ Dầu Tiếng. Hai đại đội bộ binh cơ giới và 1 đại đội xe tăng (thiếu) được sử dụng để bảo vệ 11.5km đường.
- Lúc 15h30, khi đoàn xe quân sự [vận tải] gồm 30 xe đi về huớng Bắc, một cống qua đường ở phía Nam trạm kiểm soát đã bị đánh sập bởi mìn có điều khiển, gây tắc 5 xe. Ngay lập tức đoàn xe bị tấn công, ước tính khoảng 3 đại đội quân Bắc Việt, từ rừng cây phía Đông và Tây của con đường. Bộ phận chính quân Bắc Việt nằm ở phía Tây con đường, cách vị trí sở chỉ huy quân Mỹ [Sở chỉ huy các lực lượng bảo vệ tuyến đường] khoảng 300 – 400m. Khi bộ phận hộ tống đoàn xe (quân cảnh và cơ giới), xe tăng, bộ binh… bắn trả lại, lực lượng Mỹ khác chi viện từ phía Nam lên. Quân Bắc Việt tiếp tục phá hủy 1 chiếc cống khác nằm ở phía Nam khu vực phục kích, cách đó độ 1km, nên các lực lượng chi viện chỉ có thể đến khu chiến sau 15 phút (Khoảng 15h45 đến 16h00).
- Các lực lượng Mỹ chi viện tiến đến khu vực phục kích (3 xe thiết giáp dẫn đầu, trung đội 1 bên cánh trái, trung đội 2 bên cánh phải, 3 xe thiết giáp mang súng cối 81mm ở giữa). Khi cách khu rừng 50m, lực lượng chi viện dừng lại và lùi lại 50m để không quân và pháo binh bắn phá vị trí quân Bắc Việt (Khoảng 16h00 đến 16h30).
- Xe công binh bắc cầu của Mỹ di chuyển đến khu vực phục kích từ phía Bắc, và thay thế cống qua đường bị đánh sập, cho phép phần còn lại của đoàn xe quân sự tiếp tục di chuyển. Lúc 17h00, các họat động hoàn tất và các đơn vị Mỹ triển khai trận địa phòng ngự ban đêm gần vị trí phục kích. Trong vài ngày tiếp theo, khu vực này trở thành Căn cứ yểm trợ hỏa lực.
- Các lực lượng Mỹ lục soát khu vực, xác định có 54 bộ đội Bắc Việt bị chết, bắt 2 tù binh, thu số lượng lớn súng AK, súng phóng lựu, đạn dược và tài liệu.
120 | Kiều Đình? Tám | 08/10/1966 | Cần Kiệm - Thạch Thất - Hà Tây | ||||
121 | Đào Đức Duật | 09/10/1966 | Yên Đồng - Ý Yên - Nam Hà | ||||
122 | Đào Văn Ga? | 10/10/1966 | Tâm Hương? - Ninh Giang - Hải Dương | ||||
123 | Vũ Văn Nhung | 11/10/1966 | Đông Quang - Quốc Oai - Hà Tây | ||||
124 | Bùi Văn Lục | 11/10/1966 | An Châu - Tiên Hưng - Thái Bình | ||||
125 | Tạ Văn Tuyến? | 12d6 | 11/10/1966 | ? - Tứ Kỳ - Hải Dương | |||
126 | Nguyễn V Đáp | 1d4 | 12/10/1966 | Tam Đình? - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc | |||
127 | Nguyễn V Tuất | 12/10/1966 | Cổ Đông - Tùng Thiện - Hà Tây | ||||
128 | Lê Văn Ý | 12/10/1966 | Thiệu Xương - Thiệu Hóa - Thanh Hóa | ||||
129 | Nguyễn Hữu? Chúc? | 14/10/1966 | Trung Nguyên - Yên Lạc - Vĩnh Phúc | ||||
130 | Trần văn Ngôn | 2d4 | 15/10/1966 | Hải Đình - Kim Anh - Vĩnh Phúc |
- Trong thời gian từ 18h00 đến 23h00 ngày 25/1/1960, quân số của Trung đoàn mà không tham gia vào kế hoạch chiến đấu đang tham gia lễ kỷ niệm của Sư đoàn 21 tại thành phố Tây Ninh. Tất cả các quân nhân này quay về căn cứ lúc 24h00. Các quân nhân tham dự lễ kỷ niệm không được trang bị vũ khí, chỉ có một số quân nhân mang vũ khí để bảo vệ an ninh.
- Thông thường quanh chu vi của doanh trại có 10 vọng gác. Mỗi vọng gác có 11 nguời mang súng trường M1 và 2 súng tiểu liên. Tại mỗi chốt gác, có hai nguời chịu trách nhiệm gác, còn những nguời còn lại ngủ trong các hầm cạnh chốt gác.NGoài ra, thông thường còn có các toán tuần tra đi quanh căn cứ trong bán kính 3km. Tại thời điểm căn cứ bị tấn công, tất cả các chốt gác đều có nguời, tuy nhiên các toán tuần tra không còn tiếp tục từ lúc 23h00.
- Tổng quân số của Trung đoàn 32 ở thời điểm 25/1/1960 là 1698 nguời. Tại thời điểm bị tấn công, chỉ có 547 quân nhân hoạt động trong căn cứ, trong đó có 343 tân binh mới được huấn luyện chút ít.
- Kế hoạch tác chiến đêm 25 – ngày 26/1: Trung đoàn 32 có kế hoạch càn quét bắt đầu lúc 6h00 ngày 26/1/1960. Mục đích là để tiêu diệt các phần tử nghi ngờ là quân Giải phóng trong khu vực hoạt động của Trung đoàn. (Ở vùng xấp xỉ 15km phía bắc căn cứ). Lực lượng VNCH gồm có 5 đại đội của Trung đoàn 32, trong đó có 2 đại đội sẽ xuất phát lúc 02h00, và 3 đại đội còn lại xuất phát lúc 06h00.
- Trước khi xảy ra tấn công, 120 nguời của Tiểu đoàn 1 bắt đầu chuẩn bị xuất phát. Tiểu đoàn 2 có 180 ngừoi ở căn cứ, có vũ khí và chuẩn bị xuất phát. 60 người của Tiểu đoàn 3 rời căn cứ lúc 02h00, và 120 nguời của tiểu đoàn này vẫn ở lại căn cứ, mang vũ khí và chuẩn bị rời căn cứ. Tất cả các sĩ quan tại căn cứ đều mang vũ khí, tuy nhiên, tất cả các vũ khí khác đều được bảo quản nghiêm ngặt trong kho. Đạn dược cũng được chứa trong các kho.
- Khoảng 02h30 ngày 26/1, khoảng 400 quân GP bắt đầu tấn công căn cứ. Lực lượng QGP trang bị súng bộ binh, tiểu liên, lựu đạn và chất nổ. CHiến thuật tiềm nhập được sử dụng. Các trạm gác số 3, 4, 5 đã bị chiếm trong im lặng (Các cố vấn Mỹ không thể hiểu tại sao lại xảy ra điều này). Lính QGP mang chất nổ vào căn cứ và đặt tại một vài tòa nhà. Sau khi kích nổ, QGP bắn súng cá nhân và kêu gọi lính VNCH “đầu hàng hay là chết”(Hàng thì sống - chống thì chết ? – Rx đoán). Mục tiêu của QGP là kho vũ khí và đạn dược, sau đó mới là tiêu diệt sinh lực và phá hoại các tòa nhà. Mục tiêu chính huớng tới các tòa nhà chứa vũ khí và đạn dược, mục tiêu thứ 2 là Sở chỉ huy, toà nhà thông tin, khu sĩ quan, khu để xe. QGP đã thành công trong việc tiến chiếm vũ khí tại kho. Tại mỗi kho vũ khí, vũ khí và đạn dược được vận chuyển ra ngoài. QGP chất một số vũ khí lên các xe tải của VNCH mà QGP chiếm được ở khu để xe, và vận chuyển một số vũ khí bằng thủ công ra ngoài. Sau khi đánh chiếm kho vũ khí, QGP bỏ lại nhiều vũ khí của họ và tái trang bị bằng vũ khí đánh chiếm được.
- Tiểu đoàn 1 là đơn vị đầu tiên bị tấn công. Tiểu đoàn đã rơi vào trạng thái bị động và do đó bị tràn ngập trong thời gian ngắn. Sở chỉ huy Trung đoàn bị tấn công sớm, và QGP có thể đã phá hủy hệ thống thông tin nội bộ, và phá vỡ hệ thống chỉ huy của trung đoàn. Lực lượng 180 nguời của tiểu đoàn 2 ngay lập tức sẵn sàng chiến đấu, và triển khai phòng ngự tại vị trí đóng quân của tiểu đoàn. Một số quân nhân khác của tiểu đoàn 2 cố gắng lấy vũ khí, nhưng chỉ có 8 hoặc 10 nguời thành công trước khi QGP tràn ngập kho vũ khí. Tiểu đoàn 3 có 120 nguời chuẩn bị tác chiến. Các quân nhân này chiếm lĩnh vị trí chiến đấu tại khu trú quân của tiểu đoàn. Khi tình hình đã yên tĩnh trở lại, tại khu vực tiểu đoàn 3 bắt đầu phản công sang huớng tiểu đoàn 2. Phía QGP đã rút lui sau khi đạt được mục tiêu của họ.
- Kết quả trận đánh:
+ Phía QGP có 5 nguời chết (Để lại tại chiến trường), bị thương 2 (Sau đó 1 đã bị chết). Phía VNCH báo cáo thu được 43 vũ khí cá nhân, và đạn, mìn.
+ Phía VNCH có 34 nguời chết, 16 nguời bị thương, mất tích 12 (3 y tá sau này được QGP phóng thích). Mất số lượng vũ khí gồm: Súng Colt 45 Mỹ là 45 khẩu, Súng tiểu liên Thompson là 22 khẩu, súng Carbin 173 khẩu, súng trường M1 là 451 khẩu, súng BAR là 57 khẩu, súng cối 60mm là 7 khẩu, súng cối 81 (Chỉ có nòng) là 1 khẩu, súng phóng lựu là 1 khẩu, súng DK57mm là 4 khẩu. Bị phá hoại do chất nổ, cháy gồm: 3 tòa nhà bị phá hủy hòan toàn, 4 tòa nhà bị phá hủy 1 phần, 3 bộ tổng đài điện thoại, 7 máy điện thoại, 8 máy vô tuýên điện, 3 máy thu thanh, 1 xe 1.5 tấn.
- Sau trận đánh, Sư đoàn 21 tổ chức một số đợt truy quét, tuy nhiên không có giao chiến nào với phía QGP, ngoại trừ phát hiện một số xe tải do phía QGP thu giữ [dùng để vận chuyển vũ khí - Rx chú thích thêm] trong trận đánh bỏ lại.
Chuyện kể về trận đánh Tua Hai: Nhờ một trung đội dân công đứt liên lạc, mà Châu Thành có được nhiều vũ khí
Cập nhật ngày: 26/01/2010 08:49 Ông là một cán bộ lão thành cách mạng đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền tỉnh Tây Ninh. Ông cũng là người đã từng làm dân công tham gia vác súng đạn từ kho vũ khí của địch trong trận đánh căn cứ Tua Hai oanh liệt năm xưa.
Ông là một cán bộ lão thành cách mạng đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền tỉnh Tây Ninh. Ông cũng là người đã từng làm dân công tham gia vác súng đạn từ kho vũ khí của địch trong trận đánh căn cứ Tua Hai oanh liệt năm xưa. Ông tên là Võ Đức Tú, chú Năm Tú thân thương của cán bộ, chiến sĩ Tây Ninh. Ông sinh năm 1930, nguyên Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, hiện ngụ tại ấp Thanh Thuận, xã Thanh Điền, huyện Châu Thành.
Theo lời chú Năm Tú kể: Sau khi có Nghị quyết 15 (tháng 1.1959) chú Năm Tú được điều về làm Huyện uỷ viên huyện Châu Thành, và được phân công làm Thường trực Huyện uỷ. Trước khi trận đánh Tua Hai diễn ra, có lệnh của cấp trên triệu tập cán bộ, đảng viên huyện Châu Thành “đi tập huấn” trước Tết Nguyên đán. Thực hiện lệnh triệu tập của cấp trên, Huyện uỷ Châu Thành chọn toàn cán bộ đảng viên, với 116 người tham dự. Địa điểm tập trung thuộc xã Trà Vong (thuộc huyện Tân Biên) cách Tua Hai khoảng… 3 giờ đồng hồ đi bộ. Khi đến Trà Vong nghe cấp trên triển khai Nghị quyết 15 và nói là sẽ tổ chức đánh trận lớn, anh em hết sức phấn khởi, như “nắng hạn gặp mưa rào” vì Mỹ – Diệm đàn áp nhân dân quá sức, nhân dân thống khổ dữ lắm rồi, phải vùng lên cứu dân thôi. Nhưng cấp trên cũng không cho biết là đánh ở đâu, chỉ cho biết công việc của anh em là chuẩn bị đi vác súng. Cấp trên yêu cầu mỗi người ra rừng kiếm hai sợi dây rừng thật chắc, mỗi sợi dài khoảng một sải tay (khoảng hơn 1,5 mét). Trong đêm hành quân tất cả phải ở trần, trong khi đêm cuối năm âm lịch trời rất tối và lạnh lẽo hết sức. Khoảng hơn 19 giờ đêm 25.1.1960, cấp trên tập trung anh em dân công lại và ra lệnh xuất phát. Đến lúc này mọi người cũng chưa biết rõ là đánh ở đâu. Khoảng 22 giờ 30 phút, các lực lượng của ta, kể cả dân công đã đến gần căn cứ Tua Hai, còn cách chừng 500 mét, lực lượng ta dừng quân lại mai phục. Khoảng gần 23 giờ đêm, có hàng chục chiếc xe GMC của nguỵ chở khoảng một tiểu đoàn lính từ căn cứ quân sự Tua Hai chạy trở lên hướng Mỏ Công -Trại Bí để “đi bố”. Lúc ấy trong căn cứ Tua Hai còn lại khoảng 2 tiểu đoàn. Thấy xe chở lính nguỵ đi bố, lúc đầu Ban Chỉ đạo trận đánh của ta tưởng là bị lộ rồi, nhưng khi coi lại là ta chưa bị lộ. Việc cho quân đi bố lúc nửa đêm là công việc thường xuyên của chúng. Đúng nửa đêm cấp trên ra lệnh đánh. Bị quân ta tấn công bất ngờ, bộ phận lính còn lại trong căn cứ Tua Hai trở tay không kịp. Quân ta nhanh chóng đánh chiếm kho súng lấy vũ khí địch để đánh địch. Khi chiếm được kho súng, các chiến sĩ cách mạng chuyển súng từ trong kho ra hàng rào bờ thành căn cứ Tua Hai chất thành đống, để lực lượng dân công bó súng lại bằng dây rừng và vác về căn cứ của ta. Điểm tập kết vũ khí thu được từ căn cứ Tua Hai của địch cũng chính là điểm xuất phát của lực lượng dân công ở Trà Vong.
Với vai trò Huyện uỷ viên, chú Năm Tú được phân công phụ trách một trung đội trong lực lượng dân công của huyện Châu Thành, với 23 cán bộ, đảng viên. Do trung đội chú Năm Tú đến sau, nên số súng được các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu gom ra hàng rào bờ thành không còn nữa, trung đội của chú phải vào tận trong kho lấy súng đạn. Khi vào lấy súng, đơn vị của chú Năm có 23 người, nhưng khi lấy được súng đạn trở ra thì tăng lên 25 người. Vì có hai người lính nguỵ, dân Campuchia là cơ sở của ta mới gia nhập. Nhờ vậy trung đội của chú Năm vác được 121 khẩu súng. Trong đó có cả một khẩu moọc- chê 60 mm (súng cối 60 mm); 6 khẩu trung liên Mỹ, còn lại là ga- răng; cạc- bin; thom -xon, súng lục và hai chục thùng đạn. Do đến sau và phải vào tận trong kho lấy súng, nên trung đội của chú Năm trở ra muộn. Khi trung đội của chú vừa ra khỏi bờ thành, thì có một số tên địch sống sót bắn theo. Nhờ có thời gian tham gia quân đội, chú Năm Tú chỉ huy anh em tạt qua bìa rừng để tránh làn đạn của địch. Vì phải chuyển hướng để tránh làn đạn của địch bắn theo, nên trung đội dân công của chú Năm mất liên lạc với người dẫn đường về điểm tập kết súng đạn của cấp trên. Từ đó chú Năm cùng anh em trong trung đội phải nhắm hướng tìm đường về cơ quan Huyện uỷ Châu Thành (cách đi này gọi là “đi sáng kiến”). Khi trung đội chú về đến cơ quan Huyện uỷ Châu Thành (ở xã Hảo Đước) thì trời đã rựng sáng.
Số súng vừa thu được từ căn cứ Tua Hai của trung đội chú Năm Tú lẽ ra phải được mang đến địa điểm tập kết của cấp trên, nhưng nhờ “may mắn” là đơn vị của chú bị cắt đứt với “đường dây” dẫn đường, nên số súng lấy được trở thành chiến lợi phẩm riêng của huyện Châu Thành. Nhờ vậy mà lúc ấy huyện Châu Thành có nhiều vũ khí nhất tỉnh. Sau đó số vũ khí này một phần đưa về tỉnh, một phần chia cho các xã và các đơn vị lực lượng vũ trang mới thành lập của địa phương.
D.H
(Theo lời kể của đồng chí Võ Đức Tú)
109 | Nguyễn Văn Tại | 04/10/1966 | ? - Thạch Thất - Hà Tây | ||||
110 | Phạm Văn Mùi | 05/10/1966 | ? - Kim Anh - Vĩnh Phúc | ||||
111 | Phùng Văn Điểm? | 05/10/1966 | ? - Sơn Động - Hà Bắc | ||||
112 | Nguyễn Văn Lục | 06/10/1966 | ? - Yên Phong - Hà Bắc | ||||
113 | Nguyễn ? Thi? | 13d4 | 07/10/1966 | ? - Tiên Hưng - Thái Bình | |||
114 | Kiều Đình Tâm | 10d5? | 08/10/1966 | ? - Thạch Thất - Hà Tây | |||
115 | Lê Văn Thiềng | 08/10/1966 | ? - Thiệu Hóa - Thanh Hóa | ||||
116 | Nguyễn qg Thao? | 08/10/1966 | ? - Vũ Tiên - Thái Bình | ||||
117 | Nguyễn Văn Tùng | 08/10/1966 | ? - Quế Võ? - Hà Bắc | ||||
118 | ? ? Lĩnh | 08/10/1966 | ? - Thiệu Hóa - Thanh Hóa | ||||
119 | Lê Văn Thưởng | 08/10/1966 | Thiệu Hưng - Thiệu Hóa - Thanh Hóa |
1. Mô tả vị trí cao điểm 372:
Đường 12, con đường huyết mạch của địch chạy từ Dương Xuân qua Nguyệt Biểu, vượt sông Hữu Trạch ở Bến Tuồn lên Bình Điền, Động Tranh, Tà Lương và đi ngược lên miền tây Thừa Thiên. Phía đông Động Tranh khoảng 1km có đường 12 B rẽ ngược lên phía bắc tới Hòn Vượn. Từ Động Tranh về Huế khoảng 15km. Tuyến phòng thủ đường 12 bao gồm các cứ điểm phòng ngự Bình Điền, Động Tranh; điểm cao 372, 220, 620, Tà Lương 136, 286, 246, 360, 320, 454, Hòn Đụn, Sơn Đào, 551 và Trúc Mao, tạo thành hình lòng chảo không rộng, bị chia cắt bởi nhiều sông suối.
Sư đoàn được tăng cường Trung đoàn bộ binh 6, một đại đội xe tăng thiết giáp, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 tiểu đoàn vận tải, có nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt, tiến tới phá vỡ tuyến phòng thủ của địch trên đường 12. Đối tượng tác chiến vẫn là sư đoàn 1 bộ binh ngụy.
Ngày 26 tháng 6, Trung đoàn 3 bao vây đánh lấn cứ điểm 372 để làm bàn đạp tiến công Động Tranh. Điểm cao này nằm chếch về hướng đông nam Động Tranh 1km, có ba dãy sườn dốc, cùng với Động Tranh làm thành cặp điểm tựa án ngữ trục đường 12.
2. Diễn biến chi tiết hơn về trận đánhII. Thông tin của phía Mỹ
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch giải phóng Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch 702 hạ quyết tâm: "Tranh thủ và nắm vững thời cơ phát triển tiến công giải phóng Thừa Thiên-Huế càng sớm càng tốt". Để thực hiện quyết tâm, ngày 10 tháng 5 năm 1972, đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh chiến dịch 702 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 324: "Lật cánh vào tây nam Huế, tiến công địch trên đường số 12, phối hợp với hướng chính của chiến dịch ở phía bắc Thừa Thiên". Sư đoàn đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên.
Nhận nhiệm vụ ở Bộ tư lệnh chiến dịch 702 về, sư đoàn nhanh chóng tổ chức hành quân theo góc phương vị. Tuy vất vả, nhưng các đơn vị đều tới đích.
Ngày 22 tháng 5, sư đoàn tới phía tây sông Bồ.
Ngày 26 tháng 5, các đồng chí Nam Long, Phó tư lệnh và Hồ Tú Nam, Phó chính ủy thay mặt Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên giao nhiệm vụ:
Sư đoàn được tăng cường Trung đoàn bộ binh 6, một đại đội xe tăng thiết giáp, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 tiểu đoàn vận tải, có nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt, tiến tới phá vỡ tuyến phòng thủ của địch trên đường 12. Đối tượng tác chiến vẫn là sư đoàn 1 bộ binh ngụy.
Sau khi mất Động Tranh, quân đoàn 1 ngụy vội vã củng cố sư đoàn 1 và tổ chức phản kích, lập lại tuyến phòng thủ đường số 12.
Từ giữa tháng 5, địch bắt đầu chiếm lại một số điểm cao then chốt như Động Tranh, Hòn Vượn, các điểm cao 246, 372... đến phía nam sông Hữu Trạch, hình thành cụm cứ điểm phòng ngự.
Sau khi củng cố xong các vị trí đứng chân, địch bắt đầu mở các cuộc hành quân, nhằm bật ta ra khỏi tuyến phòng thủ đường 12. Căn cứ vào nhiệm vụ, địa hình và tình hình địch, Bộ tư lệnh Sư đoàn 324 chọn hướng tiến công trên ba khu vực.
Hướng chính theo trục đường số 12 về phía nam, mục tiêu chính trên hướng này là Động Tranh và điểm cao 372, do Trung đoàn 3 đảm nhiệm.
Ngày 28 tháng 5, các đơn vị bắt đầu nổ súng bằng các trận đánh nhỏ, kéo dài hơn chục ngày, đã tiêu diệt sinh lực địch, bẻ gãy ý đồ của chúng đánh lên các điểm cao 620, 551, 360. Mức độ tác chiến ngày một tăng dần về quy mô và cường độ, từ ngày 18 tháng 6 trở đi diễn ra quyết liệt hơn, nhất là ở các điểm cao xung quanh khu vực Động Tranh và 372.
Ngày 26 tháng 6, Trung đoàn 3 bao vây đánh lấn cứ điểm 372 để làm bàn đạp tiến công Động Tranh. Điểm cao này nằm chếch về hướng đông nam Động Tranh 1km, có ba dãy sườn dốc, cùng với Động Tranh làm thành cặp điểm tựa án ngữ trục đường 12.
Tiểu đoàn 8 được tăng cường 1 đại đội chủ lực, 1 tiểu đội công binh, có nhiệm vụ vây ép, tiến tới dứt điểm căn cứ 372 trong năm ngày.
Suốt hai ngày 26 và 27 tháng 6, tiểu đoàn 8 đã bóc được một số chốt vòng ngoài. Ngày 27 tháng 6 đội hình vây lấn đã vào tới sát chân điểm cao 372.
Đêm ngày 27 tháng 6, tổ công binh bí mật cắt được bốn lớp rào ở những vị trí được xác định là cửa mở.
5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 6, tiểu đoàn 8 nổ súng đánh vào điểm cao 372. Hỏa lực các cấp bắn suốt hai giờ liền chi viện cho bộ đội đánh chiếm đầu cầu. 7 giờ 30 phút bộ đội được lệnh xung phong.
…
Đến 9 giờ tiểu đoàn 8 hoàn toàn làm chủ điểm cao 372, chỉ để lại một bộ phận nhỏ chốt giữ. Đại bộ phận tiểu đoàn rút ra ngoài chuẩn bị đánh địch phản kích.
Ngày 15/5 và 25/5, căn cứ Bastogne [Căn cứ Động Tranh - Rx chú thích] và căn cứ Checkmate [Cao điểm 342 trên bản đồ Mỹ hay Cao điểm 372 theo tên gọi của phía Quân đội NDVN - Rx chú thích] đã được [phía VNCH - Rx chú thích] tái chiếm và mối đe dọa của lực lượng địch [phía Quân đội ND VN - Rx chú thích] tiến công Huế từ phía Tây Nam bị giảm đi rõ rệt....
... Các lực lượng của Sư đoàn 1 [VNCH] tổ chức tấn công tiêu diệt các đơn vị còn lại của Sư đoàn 324B Bắc Việt vào ngày 22/7/1972...
... Các lực lượng địch kiểm soát các cao điểm xung quanh Bastogne bao gồm cả căn cứ Checkmate, mà bị mất do các đợt tấn công mới, sẽ gây khó khăn cho các lực lượng VNCH cơ động...
... Ngày 26/7, căn cứ Bastogne bị bỏ lại, tuy nhiên các lực lượng VNCH vẫn duy trì tuyến phòng ngự ổn định cắt ngang đường 547 [đường 12 Tây Huế, theo cách gọi của phía Quân đội NDVN - Rx chú thích] chỉ 2km phía Đông Bắc căn cứ Bastogne. Cho đến 4/8, khi căn cứ Bastogne và căn cứ Checkmate được [các lực lượng VNCH - Rx chú thích] tái chiếm.
Để phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện tác chiến của chiến trường, Mặt trận Tây Nguyên đã giải thể, sáp nhập một số tiểu đoàn pháo binh. Đến tháng 6/1969, TRung đoàn 40 pháo binh tổ chức lại còn 6 tiểu đoàn: 3 tiểu đoàn pháo binh (Tiểu đoàn 11, 32, 33), 1 tiểu đoàn cao xạ 37mm (Tiểu đoàn 44), 1 tiểu đoàn SMPK 12,7mm (Tiểu đoàn 30), 1 tiểu đoàn tăng (Tiểu đoàn 16).
Tiểu đoàn 31 (Tiểu đoàn 200 cũ) được phân chia từng đại đội bổ sung về làm pháo địa phương của tỉnh đội Gia Lai, tỉnh đội Kontum và thành lập tiểu đoàn 631. Tiểu đoàn 34 bổ sung cho huyện đội An Khê thành tiểu đoàn hỗn hợp 934. Đến năm 1970, tiểu đoàn pháo cao xạ 37 và tiểu đoàn xe tăng về trực thuộc Bộ Tư lệnh Tây Nguyên.
97 | Bùi Văn Chi | 17 | 28/09/1966 | ? - Ninh Giang - Hải Dương | |||
98 | Nguyễn Văn ĐÍch | 11d6 | 28/09/1966 | ? - Tiên Hưng - Thái Bình | |||
99 | Nguyễn Văn Thanh | 11d6 | 29/09/1966 | ? - Quốc Oai - Hà Tây | |||
100 | Nguyễn Văn Hồng | 1d4 | 29/09/1966 | ? - Yên Phong - Hà Bắc | |||
101 | Nguyễn Văn Sinh | 3d4 | 01/10/1966 | ?? | |||
102 | ?? ?? Huynh | 22 | 02/10/1966 | ? - Tùng Thiện - Hà Tây | |||
103 | Đỗ Văn Cận | 21 | 02/10/1966 | Ngọc Liệt - ? - Hà Tây | |||
104 | Đỗ Văn Khiêm | 23 | 02/10/1966 | ? - Phù Ninh - Phú Thọ | |||
105 | Phạm X Mạc | 17 | 02/10/1966 | ? - Kim Động - Hưng Yên | |||
106 | Đỗ Văn Xây | 19 | 03/10/1966 | ? - Văn Giang - Hưng Yên | |||
107 | Nguyễn V Sách | 2d4 | 03/10/1966 | ? - Văn Giang - Hưng Yên | |||
108 | Nguyễn V Binh | 2d4 | 04/10/1966 | ? - Văn Giang - Hưng Yên |
86 | Nguyễn Đức Thường | db4 (d bộ 4?) | 21/09/1966 | ? - Tiên SƠn - Hà Bắc | |||
87 | Nguyễn Hữu Nhuận | 13 d6 | 21/09/1966 | ? - Thạch Thất - Hà Tây | |||
88 | Lê Hải Yên (Yến?) | Ap (A phó?) d4 | 21/09/1966 | ? - Yên Định - Thanh Hóa | |||
89 | Nguyễn V Vượng | Ap (A Phó?) d6 | 22/09/1966 | ? - ? - Hà Bắc | |||
90 | Đỗ Trọng Đạt | 3d4 | 23/09/1966 | ? - Kim Anh - Vĩnh Yên | |||
91 | Đào Anh Hùng | 26/09/1966 | ? - Tiên Hưng - Thái Bình | ||||
92 | Bùi Văn Thẩm | 2d4 | 26/09/1966 | ? - Kim Anh - Vĩnh Phúc | |||
93 | Phạm Văn Sướng | 3d4 | 27/09/1966 | ? - Tiên Hưng - Thái Bình | |||
94 | Nguyễn Văn Thấu? | Ap (A phó?) d6 | 27/09/1966 | ? - Tứ Kỳ - Hải Dương | |||
95 | Nguyễn Đức Yên | 1 d4 | 27/09/1966 | ? - Tiên SƠn - Hà Bắc | |||
96 | Dương ? Ngoắc | 1 d4 | 28/09/1966 | ? - Vĩnh Yên? - Vĩnh Phúc |
74 | Nguyễn Anh? Quân? | 03/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
75 | Nguyễn TRọng Tú? | 04/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
76 | Lê Huy Hùng? | 08/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
77 | Nguyễn Công Dục? | 08/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
78 | Nguyễn Văn Bích? | 11/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
79 | Nguyễn Văn Hóa | 13?/9/66 | Không ghi quê quán | ||||
80 | Nguyễn Tiến Như | 16?/9/66 | Không ghi quê quán | ||||
81 | Vi Văn Sự | 17/09/1966 | Lương Hội? - Thạch Thất - Hà Tây | ||||
82 | Nguyễn Văn Quát | 18/09/1966 | Không ghi quê quán | ||||
83 | Nguyễn Văn Vỵ? | 21/09/1966 | ? - Kim Anh - Vĩnh Phúc | ||||
84 | Đỗ Thế Tuyển? | 21/09/1966 | ? - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc | ||||
85 | Hà Văn Sinh? | 21/09/1966 | ? - Thiệu Hóa - Thanh Hóa |
Đăng nhận xét